TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG
BẢN ÁN 80/2024/HNGĐ-ST NGÀY 03/04/2024 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON
Ngày 03 tháng 4 năm 2024, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Hải Phòng xét xử công khai vụ án thụ lý số 19/2024/TLST-HNGĐ ngày 15 tháng 01 năm 2024 về việc ly hôn theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 35/2024/QĐXXST-HNGĐ ngày 01 tháng 03 năm 2024 và Quyết định hoãn phiên tòa số 33/2024/QĐST-HNGĐ ngày 18 tháng 03 năm 2024 giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: Chị Hoàng Thị Tr; đăng ký hộ khẩu thường trú: Số 82 phố C, phường G, quận N, thành phố Hải Phòng; nơi tạm trú: Số 66/231 đường V, phường Đ, quận H, thành phố Hải Phòng; vắng mặt.
- Bị đơn: Anh Lê Mạnh T; đăng ký hộ khẩu thường trú: Số 82 phố C, phường G, quận N, thành phố Hải Phòng; tạm trú: Campuchia; vắng mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo đơn khởi kiện, bản tự khai và trong quá trình giải quyết nguyên đơn chị Hoàng Thị Tr trình bày:
Chị Hoàng Thị Tr và anh Lê Mạnh T kết hôn trên cơ sở tự nguyện, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân phường G, quận N, thành phố Hải Phòng vào ngày 13/01/2015. Sau khi kết hôn vợ chồng chung sống hoà thuận, hạnh phúc đến năm 2020 thì phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân do không hoà hợp, bất đồng quan điểm sống, không tìm được tiếng nói chung. Mâu thuẫn vợ chồng đã được gia đình hai bên hoà giải nhiều lần nhưng không có kết quả. Đến đầu năm 2023, anh T sang Campuchia để lao động, từ đó vợ chồng sống ly thân, không quan tâm đến nhau. Chị Tr hiện không liên lạc với anh T nên không thể biết được địa chỉ của anh T tại Campuchia để cung cấp cho Tòa án. Tuy nhiên chị được biết anh T vẫn thường xuyên liên lạc với mẹ đẻ là bà Nguyễn Thị Minh H, sinh năm 1968; địa chỉ: Số 82 Phố C, phường G, quận N, thành phố Hải Phòng. Nay chị xét thấy tình cảm vợ chồng không còn, mâu thuẫn vợ chồng đã trầm trọng, không có khả năng đoàn tụ nên chị Tr đề nghị Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn với anh Lê Mạnh T.
- Về con chung: Chị Tr và anh T có 02 con chung là Lê Nhật N, sinh ngày 07 tháng 01 năm 2014 và Lê Nhật A, sinh ngày 03 tháng 8 năm 2020. Khi ly hôn chị Tr có nguyện vọng được nuôi cả hai con. Việc cấp dưỡng nuôi con chung không yêu cầu Tòa án giải quyết.
- Về tài sản chung: Chị không yêu cầu Tòa án giải quyết.
Đối với bị đơn là anh Lê Mạnh T: Sau khi thụ lý vụ án, Tòa án nhân dân thành phố Hải Phòng đã thông báo cho gia đình anh T cung cấp địa chỉ của anh T tại Campuchia và yêu cầu gia đình anh T cho biết kết quả đã thông báo cho anh T biết để gửi lời khai và cung cấp tài liệu, chứng cứ về Tòa án. Mẹ đẻ anh T là bà Nguyễn Thị Minh H đã có ý kiến như sau:
Anh T kết hôn với chị Tr vào ngày 13/01/2015 tại UBND phường G, quận N, thành phố Hải Phòng. Sau khi kết hôn vợ chồng sống hạnh phúc đến năm 2020 thì phát sinh mâu thuẫn nguyên nhân do bất đồng quan điểm sống, không hợp nhau về tính cách. Đến năm 2023 anh T sang Campuchia lao động, anh T, chị Tr ly thân từ đó đến nay. Chị Tr có đơn xin ly hôn với anh T bà đề nghị Toà án giải quyết theo quy định của pháp luật, gia đình không có ý kiến gì. Anh T vẫn thường xuyên liên lạc với gia đình, bà đã trao đổi với anh T về việc chị Tr có đơn xin ly hôn thì anh T có quan điểm đồng ý ly hôn với chị Tr, anh T từ chối cung cấp địa chỉ tại Campuchia vì lý do công việc, do đó bà không thể cung cấp địa chỉ tại Campuchia cho Toà án được.
Về con chung: Chị Tr và anh T có 02 con chung là Lê Nhật N, sinh ngày 07 tháng 01 năm 2014 và Lê Nhật A, sinh ngày 03 tháng 8 năm 2020. Do anh T đang ở nước ngoài nên khi ly hôn đề nghị giao cả hai con cho chị Tr nuôi dưỡng. Về cấp dưỡng nuôi con, anh chị tự thoả thuận bà không có ý kiến gì. Bà H có trao đổi với anh T thì anh T đồng ý giao cả hai con cho chị Tr nuôi dưỡng, nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con anh không yêu cầu Toà án giải quyết.
Về tài sản chung: Gia đình không nắm được tài sản chung của anh T và chị Tr.
Tại phiên tòa đại diện Viện Kiểm sát nhân dân thành phố Hải Phòng phát biểu ý kiến: Qua kiểm sát việc giải quyết vụ án từ khi thụ lý đến thời điểm xét xử thấy rằng Thẩm phán và Hội đồng xét xử, Thư ký đã thực hiện đúng quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự. Nguyên đơn đã thực hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ tố tụng theo quy định tại Điều 70, Điều 71 Bộ luật Tố tụng dân sự; bị đơn chưa chấp hành đầy đủ quy định Điều 70, Điều 72 Bộ luật Tố tụng dân sự.
Về quan hệ hôn nhân: Căn cứ vào lời khai của đương sự và các tài liệu Tòa án đã thu thập thể hiện mâu thuẫn của chị Tr và anh T không thể hòa giải, mâu thuẫn trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được đề nghị HĐXX căn cứ vào Điều 51, Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình cần chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn cho chị Hoàng Thị Tr được ly hôn với anh Lê Mạnh T.
Về con chung: Chị Tr và anh T có 02 con chung là Lê Nhật N, sinh ngày 07 tháng 01 năm 2014 và Lê Nhật A, sinh ngày 03 tháng 8 năm 2020. Chị Tr có nguyện vọng được nuôi cả hai con. Gia đình anh T cũng đề nghị Toà án giao cả hai con cho chị Tr nuôi dưỡng nên đề nghị Toà án giao con Lê Nhật N và Lê Nhật A cho chị Tr trực tiếp nuôi dưỡng đến khi các con đủ 18 tuổi. Việc cấp dưỡng nuôi con không yêu cầu Toà án giải quyết, nên không đề nghị HĐXX xem xét.
Về tài sản chung: Chị Tr không yêu cầu Toà án giải quyết nên không đề nghị HĐXX xem xét.
Về án phí: Chị Tr phải chịu án phí ly hôn theo quy định của pháp luật.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
[1] Về quan hệ pháp luật tranh chấp, thẩm quyền: Đây là vụ án ly hôn, tranh chấp về nuôi con. Bị đơn là anh Lê Mạnh T; đăng ký hộ khẩu thường trú: Số 82 phố C, phường G, quận N, thành phố Hải Phòng; tạm trú tại Campuchia; nguyên đơn là chị Hoàng Thị Tr; đăng ký hộ khẩu thường trú: Số 82 phố C, phường G, quận N, thành phố Hải Phòng; nơi tạm trú: Số 66/231 đường V, phường Đ, quận H, thành phố Hải Phòng; căn cứ quy định tại khoản 1 Điều 28; khoản 3 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 37; điểm d khoản 1 Điều 469 của Bộ luật Tố tụng dân sự vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Toà án nhân dân thành phố Hải Phòng.
[2] Về sự vắng mặt của đương sự: Tòa án triệu tập hợp lệ đến phiên tòa lần thứ hai chị Hoàng Thị Tr vắng mặt nhưng có đơn đề nghị xét xử vắng mặt;; anh Lê Mạnh T vắng mặt mặc dù đã được tống đạt, thông báo hợp lệ. Căn cứ vào Điều 227, Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự, Toà án tiến hành xét xử vắng mặt nguyên đơn, bị đơn.
[3] Về quan hệ hôn nhân: Chị Hoàng Thị Tr và anh Lê Mạnh T kết hôn với nhau trên cơ sở tự nguyện, tự tìm hiểu, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân phường G, quận N, thành phố Hải Phòng vào ngày 13/01/2015, tuân thủ đúng quy định tại Điều 8, Điều 9 Luật Hôn nhân và gia đình nên là hôn nhân hợp pháp. Quá trình chung sống vợ chồng xảy ra mâu thuẫn do vợ chồng không hoà hợp, bất đồng về quan điểm sống, không tìm được tiếng nói chung. Từ khi anh T đi Campuchia hai vợ chồng đã sống ly thân. HĐXX xét thấy mâu thuẫn vợ chồng đã trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được nên cần chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của chị Hoàng Thị Tr và anh Lê Mạnh T là phù hợp với quy định tại Điều 51, Điều 56 của Luật Hôn nhân và gia đình.
[4] Về con chung: Chị Tr và anh T có 02 con chung Lê Nhật N, sinh ngày 07 tháng 01 năm 2014 và Lê Nhật A, sinh ngày 03 tháng 8 năm 2020. Ly hôn, chị Tr có nguyện vọng được trực tiếp nuôi cả hai con chung. Gia đình anh T cũng đề nghị Toà án giao cả hai con chung cho chị Tr nuôi dưỡng. HĐXX xét hiện anh T đang ở Campuchia nên không có điều kiện chăm sóc, nuôi dưỡng các con, do vậy cần giao cả hai con cho chị Tr nuôi dưỡng là phù hợp với các Điều 81, 82, 83 Luật Hôn nhân và gia đình. Việc cấp dưỡng nuôi con không yêu cầu Toà án giải quyết nên HĐXX không xem xét.
[5] Về tài sản chung: Chị Tr không yêu cầu Toà án giải quyết nên HĐXX không xem xét.
[6] Về án phí: Chị Hoàng Thị Tr phải chịu án phí ly hôn sơ thẩm theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ khoản 1 Điều 28; khoản 3 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 37; điểm a khoản 1 Điều 39; khoản 4 Điều 147; khoản 2 Điều 227; Điều 228; Điều 273; điểm d khoản 1 Điều 469; khoản 2 Điều 479 Bộ luật Tố tụng dân sự;
Căn cứ Điều 51; Điều 56, Điều 81, 82, 83 của Luật Hôn nhân và gia đình;
Căn cứ khoản 5 Điều 27 Nghị Quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội; xử:
Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Hoàng Thị Tr.
Về quan hệ hôn nhân: Chị Hoàng Thị Tr được ly hôn anh Lê Mạnh T.
Về con chung: Giao cả hai con chung Lê Nhật N, sinh ngày 07 tháng 01 năm 2014 và Lê Nhật A, sinh ngày 03 tháng 8 năm 2020 cho chị Hoàng Thị Tr trực tiếp nuôi dưỡng cho đến khi các con đủ 18 tuổi hoặc có sự thay đổi khác theo quy định của pháp luật. Việc cấp dưỡng nuôi con chung không yêu cầu nên không xem xét.
Sau khi ly hôn, người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở.
Về án phí: Chị Hoàng Thị Tr phải chịu 300.000 đồng (ba trăm nghìn đồng) án phí ly hôn sơ thẩm. Số tiền trên chị Tr đã nộp đủ tại biên lai thu tiền tạm ứng án phí, lệ phí số 0000018 ngày 15 tháng 01 năm 2024 tại Cục Thi hành án dân sự thành phố Hải Phòng.
Về quyền kháng cáo:
Chị Hoàng Thị Tr có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc từ ngày bản án được niêm yết.
Anh Lê Mạnh T có quyền kháng cáo bản án trong hạn 01 tháng kể từ ngày bản án được tống đạt hợp lệ hoặc kể từ ngày bản án được niêm yết hợp lệ theo quy định của pháp luật.
Bản án 80/2024/HNGĐ-ST về ly hôn, tranh chấp nuôi con
Số hiệu: | 80/2024/HNGĐ-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Hải Phòng |
Lĩnh vực: | Hôn Nhân Gia Đình |
Ngày ban hành: | 03/04/2024 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về