TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TIÊN LÃNG, THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG
BẢN ÁN 72/2024/HNGĐ-ST NGÀY 10/10/2024 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON
Ngày 10 tháng 10 năm 2024, tại Trụ sở Toà án nhân dân huyện Tiên Lăng, thành phố Hải Phòng xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số 118/2024/TLST-HNGĐ ngày 19 tháng 7 năm 2024 về việc “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con”, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 67/2024/QĐXXST-HNGĐ, ngày 17 tháng 9 năm 2024 (Quyết định hoãn phiên tòa số 49/2024/QĐST-HNGĐ, ngày 03 tháng 10 năm 2024), giữa các đương sự:
1. Nguyên đơn: Anh Nguyễn Đình H, sinh năm 1984; nơi cư trú: Khu B, thị trấn T, huyện T, thành phố Hải Phòng; vắng mặt.
2. Bị đơn: Chị Nguyễn Thị H1, sinh năm 1991; nơi cư trú: Khu B, thị trấn T, huyện T, thành phố Hải Phòng; vắng mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Trong đơn khởi kiện, bản tự khai ngày 19/7/2024, nguyên đơn là anh Nguyễn Đình H trình bày:
Anh H và chị Nguyễn Thị H1 xây dựng gia đình với nhau tự nguyện và đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân thị trấn T ngày 04/11/2020. Trong quá trình chung sống, anh chị hoà thuận, hạnh phúc được 03 năm thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn là do tính tình không hợp, vợ chồng bất đồng quan điểm cả trong sinh hoạt lẫn công việc. Sau khi kết hôn, chị H1 sinh con liền hai năm, không đi làm nên toàn bộ kinh tế do anh H lo toan, gánh vác. Mặt khác, giữa vợ chồng không có sự chia sẻ, bàn bạc, trao đối với nhau; tình cảm vợ chồng lạnh nhạt, không còn quan tâm đến nhau. Anh H đã nhiều lần tâm sự với chị H1 nhưng không thay đổi được. Anh H xác định không còn tình cảm với chị H1 và muốn sống ly thân nhưng do các con còn nhỏ nên mặc dù đi làm ở K để tránh vợ chồng xung đột, anh H vẫn phải sáng đi sớm, tối về muộn; sống chung với chị H1 nhưng không còn sinh hoạt chung, ai làm việc người ấy. Nay xác định tình cảm vợ chồng không còn, không thể tiếp tục chung sống, anh H yêu cầu Tòa án giải quyết cho anh được ly hôn chị H1. Anh chị có 02 con chung là Nguyễn Ngọc A, sinh ngày 13/4/2021 và Nguyễn Đình K, sinh ngày 15/9/2022. Khi ly hôn, anh nhận trực tiếp nuôi con Ngọc A, để chị H1 trực tiếp nuôi con Đình K; việc cấp dưỡng cho con anh xin tự thỏa thuận với chị H1. Về tài sản chung, anh H tự thoả thuận với chị H1, không yêu cầu Toà án giải quyết.
Tại biên bản lấy lời khai của đương sự ngày 24/7/2024, bị đơn là chị Nguyễn Thị H1 trình bày:
Về thời gian, điều kiện kết hôn như anh H trình bày là đúng thực tế. Quá trình chung sống, vợ chồng sống hạnh phúc, không xảy ra mâu thuẫn gì. Do sau khi kết hôn, chị H1 sinh con liền hai năm nên không đi làm được, toàn bộ kinh tế do anh H lo toan, gánh vác nên anh H bị áp lực. Mọi chuyện trong cuộc sống, anh H không chia sẻ, bàn bạc, nói chuyện với chị H1 mà tự mình quyết định nên cuộc sống vợ chồng lạnh nhạt. Khoảng tháng 4 năm 2023, anh H bị ngộ độc thức ăn, nhưng hôm đó gia đình chị H1 có việc, chị phải về lo toan, quán xuyến nên anh H cho rằng chị H1 không quan tâm đến anh H. Anh chị hiện vẫn ăn ở, sinh hoạt chung. Nay anh H yêu cầu ly hôn, chị H1 không đồng ý ly hôn, vì mâu thuẫn vợ chồng không có gì trầm trọng, không hiểu lý do gì anh H lại kiên quyết ly hôn. Anh chị có 02 con chung như anh H trình bày. Nếu phải ly hôn, chị H1 nhận trực tiếp nuôi cả hai con. Chị H1 tự thoả thuận với anh H về cấp dưỡng cho con và tài sản chung, không yêu cầu Toà án giải quyết.
Tài liệu xác minh tại địa phương thể hiện: Anh H và chị H1 có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân thị trấn T theo quy định pháp luật. Anh chị sống hạnh phúc đến khoảng năm 2023 thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn là do tính tình không hợp, vợ chồng bất đồng quan điểm sống, không có sự thông cảm, chia sẻ với nhau. Một mình anh H lo kinh tế nhưng không có sự đồng cảm, quan tâm từ vợ. Anh chị có 02 con chung; anh H hiện làm nhân viên kinh doanh có thu nhập ổn định, chị H1 hiện ở nhà nội trợ, chăm con nhỏ; bố mẹ anh H có hỗ trợ anh chị về kinh tế và chăm sóc con.
Tại bản tự khai ngày 09/9/2024, anh H trình bày: Trong đơn khởi kiện và bản tự khai trước đây anh có yêu cầu Tòa án giao cho anh trực tiếp nuôi dưỡng con Nguyễn Ngọc A, để chị H1 trực tiếp nuôi con Nguyễn Đình K. Nay nhận thấy chị H1 và các con vẫn ở với bố mẹ anh; chị H1 còn được bố mẹ đẻ anh H hỗ trợ chăm sóc các con. Do đó, để đảm bảo quyền lợi của các con, anh đề nghị Tòa án giao cả hai con cho chị H1 trực tiếp nuôi dưỡng. Việc cấp dưỡng cho con, anh xin tự giải quyết với chị H1. Về các nội dung khác, anh không thay đổi, bổ sung gì.
Kiểm sát viên phát biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật tố tụng dân sự trong quá trình giải quyết vụ án của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa và việc chấp hành pháp luật của các đương sự như sau: Thẩm phán, Hội đồng xét xử và Thư ký phiên tòa đã thực hiện đúng quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự về: Thẩm quyền giải quyết, xác định quan hệ pháp luật tranh chấp, tư cách của những người tham gia tố tụng; thu thập chứng cứ, xét xử vắng mặt các đương sự và các hoạt động tố tụng khác. Trong quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn đã thực hiện đúng quyền và nghĩa vụ theo quy định tại các điều 70, 71 Bộ luật Tố tụng dân sự; bị đơn thực hiện không đúng quyền và nghĩa vụ tố tụng theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự.
Về việc giải quyết vụ án: Kiểm sát viên đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ vào khoản 1 Điều 56, Điều 81, Điều 82, Điều 83 của Luật Hôn nhân và gia đình; khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, khoản 4 Điều 147, điểm b khoản 2 Điều 227; khoản 1, khoản 3 Điều 228; Điều 238, Điều 266, Điều 271 và khoản 1 Điều 273 của Bộ luật Tố tụng dân sự; điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, chấp nhận yêu cầu khởi kiện của anh Nguyễn Đình H: Xử cho anh H được ly hôn chị Nguyễn Thị H1. Về con chung: Giao cả hai con Nguyễn Ngọc A, sinh ngày 13/4/2021 và Nguyễn Đình K, sinh ngày 15/9/2022 cho chị H1 trực tiếp nuôi dưỡng cho đến khi con đủ 18 tuổi hoặc có sự thay đổi khác theo quy định của pháp luật. Về việc cấp dưỡng cho con và tài sản chung: Do các đương sự không yêu cầu nên không xem xét, giải quyết. Anh H phải chịu án phí ly hôn sơ thẩm theo quy định của pháp luật.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ đã được xem xét tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:
- Về tố tụng:
[1] Đây là vụ án ly hôn, tranh chấp về nuôi con, theo quy định tại khoản 1 Điều 28 Bộ luật Tố tụng dân sự; chị Nguyễn Thị H1 là bị đơn, hiện đang cư trú tại khu B, thị trấn T, huyện T, thành phố Hải Phòng. Do đó, căn cứ quy định tại điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự, vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Tiên Lăng.
[2] Nguyên đơn (anh Nguyễn Đình H) đã được Tòa án triệu tập hợp lệ, nhưng có đơn đề nghị xét xử vắng mặt. Bị đơn (chị H1) đã được Tòa án triệu tập hợp lệ lần thứ hai để tham gia phiên tòa, nhưng vẫn vắng mặt không vì lý do bất khả kháng hoặc trở ngại khách quan. Vì vậy, căn cứ điểm b khoản 2 Điều 227, khoản 1, khoản 3 Điều 228, Điều 238 của Bộ luật Tố tụng dân sự, Tòa án tiến hành xét xử vụ án vắng mặt anh H, chị H1.
- Về nội dung:
[3] Quan hệ hôn nhân giữa anh Nguyễn Đình H và chị Nguyễn Thị H1 được xác lập từ ngày 04/11/2020 là quan hệ hôn nhân hợp pháp. Trong quá trình chung sống, vợ chồng hoà thuận đến năm 2023 thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn là do tính tình vợ chồng không hợp; vợ chồng bất đồng quan điểm trong sinh hoạt cũng như công việc, giữa vợ chồng không có sự thông cảm, chia sẻ với nhau. Mặc dù, anh chị vẫn chung sống cùng nhà nhưng không còn quan tâm đến nhau. Do đó có đủ cơ sở xác định, tình trạng hôn nhân giữa anh chị đã trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được. Vì vậy, cần chấp nhận yêu cầu khởi kiện của anh H, xử cho anh được ly hôn chị H1 là phù hợp với quy định tại khoản 1 Điều 56 của Luật Hôn nhân và gia đình.
[4] Về con chung: Anh chị có 02 con chung là Nguyễn Ngọc A, sinh ngày 13/4/2021 và Nguyễn Đình K, sinh ngày 15/9/2022. Nếu phải ly hôn, chị H1 nhận trực tiếp nuôi dưỡng cả hai con; việc cấp dưỡng cho con, chị xin tự thỏa thuận với anh H. Nay, anh H cũng đồng ý để chị H1 trực tiếp nuôi dưỡng cả hai con. Xét thấy, chị H1 cũng có điều kiện nuôi con; hiện nay, con chung và chị H1 đang ở cùng với bố mẹ đẻ anh H; chị H1 được bố mẹ đẻ anh H hỗ trợ chăm sóc, nuôi dưỡng con. Vì vậy, để đảm bảo quyền lợi về mọi mặt cho con, cần chấp nhận yêu cầu của anh chị, giao cả hai con cho chị H1 trực tiếp nuôi dưỡng là phù hợp với quy định tại khoản 2 Điều 81 Luật Hôn nhân và gia đình. Việc cấp dưỡng cho con, anh H, chị H1 xin tự thỏa thuận, nên để anh chị giải quyết với nhau là phù hợp.
[5] Về tài sản chung: Anh H, chị H1 không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không đặt ra giải quyết.
[6] Về án phí: Căn cứ quy định tại khoản 4 Điều 147 Bộ luật Tố tụng dân sự, khoản 1 Điều 6, điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về án phí, lệ phí tòa án, anh H phải chịu 300.000 đồng án phí ly hôn sơ thẩm.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào khoản 1 Điều 56, khoản 2 Điều 81, Điều 82, Điều 83 của Luật Hôn nhân và gia đình;
Căn cứ vào khoản 1 Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39; khoản 4 Điều 147; điểm b khoản 2 Điều 227; khoản 1, khoản 3 Điều 228; Điều 238; Điều 266; Điều 271; khoản 1 Điều 273 của Bộ luật Tố tụng dân sự;
Căn cứ vào khoản 1 Điều 6; điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về án phí, lệ phí tòa án, Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn (anh Nguyễn Đình H):
1. Về quan hệ hôn nhân: Xử cho anh Nguyễn Đình H được ly hôn chị Nguyễn Thị H1.
2. Về con chung: Giao 02 con Nguyễn Ngọc A, sinh ngày 13/4/2021 và Nguyễn Đình K, sinh ngày 15/9/2022 cho chị H1 trực tiếp nuôi dưỡng. Thời hạn nuôi con tính từ ngày 10/10/2024 cho đến khi con đủ 18 tuổi hoặc có sự thay đổi khác theo quy định của pháp luật. Việc cấp dưỡng cho con, anh H, chị H1 tự giải quyết với nhau.
Sau khi ly hôn, người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở.
3. Về án phí: Anh Nguyễn Đình H phải chịu 300.000 (Ba trăm nghìn) đồng, án phí ly hôn sơ thẩm. Anh H đã nộp 300.000 (Ba trăm nghìn) đồng, tạm ứng án phí, theo Biên lai thu tiền tạm ứng án phí, lệ phí tòa án số 0009071, ngày 19 tháng 7 năm 2024 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Tiên Lăng. Anh H đã nộp đủ án phí ly hôn sơ thẩm.
Các đương sự có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được bản án hoặc kể từ ngày bản án được niêm yết, thông báo.
Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự, người phải thi hành án có quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7, 7a và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự./.
Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con số 72/2024/HNGĐ-ST
| Số hiệu: | 72/2024/HNGĐ-ST |
| Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
| Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Tiên Lãng - Hải Phòng |
| Lĩnh vực: | Hôn Nhân Gia Đình |
| Ngày ban hành: | 10/10/2024 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về