Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con số 66/2022/HNGĐ-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN THUỶ NGUYÊN, THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG

BẢN ÁN 66/2022/HNGĐ-ST NGÀY 22/04/2022 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON

Ngày 22 tháng 4 năm 2022, tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Thuỷ Nguyên xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số 30/2022/TLST-HNGĐ ngày 28 tháng 01 năm 2022 về ly hôn, tranh chấp về nuôi con theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 56/2022/QĐXXST-HNGĐ ngày 01 tháng 4 năm 2022 và Quyết định hoãn phiên tòa số 52/2022/QĐST-HNGĐ ngày 19 tháng 4 năm 2022, giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Anh Vũ Nhân T; nơi cư trú: Thôn 7, xã M, huyện T, thành phố Hải Phòng. Có mặt.

- Bị đơn: Chị Nguyễn Thị D; nơi cư trú: Thôn 7, xã M, huyện T, thành phố Hải Phòng. Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Anh Vũ Nhân T là nguyên đơn, khởi kiện với nội dung: Anh và chị Nguyễn Thị D kết hôn trên cơ sở tự nguyện, được hai bên gia đình tổ chức lễ cưới theo phong tục và có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã M, huyện T, thành phố Hải Phòng vào ngày 29 tháng 12 năm 2014. Sau lễ cưới, vợ chồng về chung sống cùng nhau tại thôn 7, xã M, huyện T, thành phố Hải Phòng. Quá trình chung sống vợ chồng hòa thuận đến cuối năm 2018 thì xảy ra mâu thuẫn. Nguyên nhân là do vợ chồng bất đồng trong sinh hoạt, không còn tin tưởng nhau về mặt tình cảm dẫn đến xảy ra cãi mắng xúc phạm nhau. Chị D đã về nhà bố mẹ đẻ ở, vợ chồng sống ly thân từ cuối năm 2018 cho đến nay. Tình cảm vợ chồng thờ ơ lạnh nhạt và không còn quan tâm đến nhau. Nay, anh Vũ Nhân T nhận thấy không còn tình cảm và không thể về đoàn tụ với chị D nên đề nghị được ly hôn với chị Nguyễn Thị D.

Anh và chị D có 01 con chung tên Vũ Nhân Gia A, sinh ngày 28 tháng 7 năm 2015. Khi ly hôn, anh T đề nghị được trực tiếp nuôi dưỡng con chung. Việc cấp dưỡng nuôi con do anh và chị D tự thỏa thuận, không đề nghị Tòa án giải quyết. Anh và chị D không có tài sản chung nên không đề nghị Tòa án giải quyết.

Chị Nguyễn Thị D là bị đơn, đã được Tòa án tống đạt hợp lệ thông báo thụ lý vụ án và các văn bản tố tụng khác, song đến ngày mở phiên tòa chị D vẫn không có văn bản trình bày ý kiến về quan hệ hôn nhân, con chung và tài sản chung.

Tại phiên toà, Kiểm sát viên phát biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật tố tụng như sau: Về thẩm quyền giải quyết vụ án, Tòa án nhân dân huyện Thủy Nguyên đã tuân theo đúng quy định của pháp luật quy định tại Điều 28, Điều 35, Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự. Trong quá trình giải quyết vụ án, Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký đã tiến hành giải quyết vụ án theo đúng trình tự thủ tục do pháp luật quy định. Nguyên đơn thực hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ theo quy định tại Điều 70, Điều 71 và Điều 227 của Bộ luật Tố tụng dân sự. Bị đơn không thực hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ theo quy định tại Điều 70, Điều 72 và Điều 227 của Bộ luật tố tụng dân sự. Về việc giải quyết vụ án: Kiểm sát viên đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng Điều 28, Điều 35, Điều 39, Điều 147, Điều 227, Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự; Điều 51; khoản 1 Điều 56; Điều 81; Điều 82; Điều 83 của Luật Hôn nhân và gia đình chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, cho anh Vũ Nhân T được ly hôn với chị Nguyễn Thị D; đề nghị giao con chung tên Vũ Nhân Gia A cho anh Vũ Nhân T trực tiếp nuôi dưỡng. Người không trực tiếp nuôi con có quyền và nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở. Nguyên đơn nộp án phí ly hôn sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Căn cứ vào tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án đã được xem xét tại phiên tòa, kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về sự vắng mặt của đương sự Bị đơn là chị Nguyễn Thị D đã được Tòa án triệu tập hợp lệ đến phiên tòa lần thứ hai nhưng vắng mặt không có lý do. Căn cứ khoản 2 Điều 227, khoản 3 Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt bị đơn.

[2] Về yêu cầu của anh Vũ Nhân T xin ly hôn với chị Nguyễn Thị D Anh Vũ Nhân T và chị Nguyễn Thị D kết hôn trên cơ sở tự nguyện, đủ điều kiện kết hôn và có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã M, huyện T, thành phố Hải Phòng nên hôn nhân giữa anh T và chị D là hôn nhân hợp pháp. Do mâu thuẫn vợ chồng nên anh T làm đơn xin ly hôn với chị D. Tài liệu xác minh tại gia đình và tại địa phương thống nhất thể hiện: Cuộc sống chung vợ chồng giữa anh Vũ Nhân T và chị Nguyễn Thị D đã phát sinh mâu thuẫn từ năm 2018. Nguyên nhân mâu thuẫn là do tính tình vợ chồng không hòa hợp, bất đồng trong sinh hoạt, vợ chồng không còn tin tưởng nhau về mặt tình cảm dẫn đến cãi vã, xúc phạm nhau. Chị D về nhà bố mẹ đẻ ở, vợ chồng ly thân từ đó cho đến nay. Gia đình hai bên đều đã động viên khuyên giải nhưng không có kết quả. Xét thấy, thời gian vợ chồng mâu thuẫn và ly thân đã lâu, nhưng đến nay tình trạng mâu thuẫn vẫn không được cải thiện, hai bên không còn quan tâm, yêu thương và chia sẻ cùng nhau. Quá trình giải quyết vụ án, Tòa án nhiều lần triệu tập và tiến hành hòa giải nhưng chị D vắng mặt không có lý do, cho thấy quan hệ hôn nhân giữa anh T và chị D không còn khả năng đoàn tụ.

Từ những căn cứ nêu trên cho thấy mâu thuẫn vợ chồng đã trầm trọng, mục đích hôn nhân không đạt được và đời sống chung không thể tiếp tục kéo dài. Do vậy, Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của anh Vũ Nhân T xin ly hôn chị Nguyễn Thị D.

[3] Về người trực tiếp nuôi con khi ly hôn và nghĩa vụ cấp dưỡng cho con Anh Vũ Nhân T và chị Nguyễn Thị D có 01 con chung tên Vũ Nhân Gia A, sinh ngày 28/7/2015. Khi ly hôn, anh T đề nghị được trực tiếp nuôi con chung. Hội đồng xét xử xem xét các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án và nhận định về đề nghị nuôi con của anh T như sau: Kể từ khi vợ chồng ly thân, con chung ở cùng với anh T. Việc ăn ở và học tập đều ổn định, con chung có nguyện vọng được ở cùng với anh T. Mặt khác, anh T làm công nhân, có công việc và thu nhập ổn định. Chị Nguyễn Thị D không có lời khai thể hiện quan điểm về người trực tiếp nuôi con khi ly hôn.

Căn cứ vào quyền lợi mọi mặt của con, điều kiện thực hiện việc nuôi con của đương sự và quy định của pháp luật, Hội đồng xét xử xét giao cho anh Vũ Nhân T trực tiếp nuôi dưỡng con chung là phù hợp với quy định của Luật Hôn nhân và gia đình.

Cấp dưỡng nuôi con là nghĩa vụ của người không trực tiếp nuôi con. Anh Vũ Nhân T không đề nghị Tòa án giải quyết về việc cấp dưỡng nuôi con nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[4] Về tài sản chung, anh Vũ Nhân T khai vợ chồng không có tài sản chung và không đề nghị Tòa án giải quyết. Mặt khác không có lời khai của bị đơn là chị Nguyễn Thị D về tài sản chung. Do đó, Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết về tài sản chung trong vụ án này.

[5] Về án phí, anh Vũ Nhân T phải chịu án phí sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ Điều 28, Điều 35, Điều 39, Điều 147, Điều 227, Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự; Điều 51; khoản 1 Điều 56; Điều 81; Điều 82; Điều 83 của Luật Hôn nhân và gia đình; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án, Xử: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của anh Vũ Nhân T:

1. Về quan hệ hôn nhân: Cho anh Vũ Nhân T được ly hôn chị Nguyễn Thị D.

2. Về con chung: Giao cho anh Vũ Nhân T trực tiếp nuôi dưỡng con chung là Vũ Nhân Gia A, sinh ngày 28 tháng 7 năm 2015 cho đến khi con chung thành niên và có khả năng lao động, trừ trường hợp có sự thay đổi khác theo quy định của pháp luật. Người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở.

Về nghĩa vụ cấp dưỡng cho con sau khi ly hôn: Các đương sự tạm thời không yêu cầu người không trực tiếp nuôi con cấp dưỡng cho con.

3. Về án phí: Anh Vũ Nhân T phải nộp 300.000 đồng án phí ly hôn sơ thẩm. Đối trừ với số tiền tạm ứng án phí đã nộp (ghi tại biên lai thu số 0007715 ngày 28/01/2022 tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Thủy Nguyên), anh Vũ Nhân T đã nộp đủ án phí.

4. Về quyền kháng cáo: Anh Vũ Nhân T có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án; chị Nguyễn Thị D có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 của Luật Thi hành án dân sự được sửa đổi, bổ sung năm 2014 thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, Điều 7a và Điều 9 của Luật Thi hành án dân sự được sửa đổi, bổ sung năm 2014; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 của Luật Thi hành án dân sự được sửa đổi, bổ sung năm 2014.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

119
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con số 66/2022/HNGĐ-ST

Số hiệu:66/2022/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Thuỷ Nguyên - Hải Phòng
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 22/04/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;