Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con số 64/2022/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN ĐỨC LINH, TỈNH BÌNH THUẬN

BẢN ÁN 64/2022/HNGĐ-ST NGÀY 29/04/2022 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON

Ngày 29 tháng 4 năm 2022, tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Đức Linh, tỉnh Bình Thuận xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số: 64/2022/TLST- HN&GĐ ngày 24 tháng 02 năm 2022 về việc “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 39/2022/QĐXXST-HN&GĐ ngày 14 tháng 3 năm 2022 và Quyết định hoãn phiên tòa số 28/2022/QĐST-HN&GĐ ngày 06 tháng 4 năm 2022, giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Chị Nguyễn Thị Tuyết N, sinh năm 1997;

Nơi cư trú: Thôn 2, xã TH, huyện Đức Linh, tỉnh Bình Thuận.

- Bị đơn: Anh Trần Đức H, sinh năm 1996;

Nơi cư trú: Tổ 1, khu phố 2, thị trấn ĐT, huyện Đức Linh, tỉnh Bình Thuận.

Tại phiên tòa, có mặt nguyên đơn, vắng mặt bị đơn.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại đơn khởi kiện và quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn Nguyễn Thị Tuyết N trình bày:

Về hôn nhân: Chị N và anh H kết hôn vào năm 2016, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân thị trấn ĐT; sau khi kết hôn thì chị N và anh H chung sống xảy ra nhiều mâu thuẫn và dẫn đến ly thân nhau từ năm 2018 cho đến nay; chị N xác định không còn tình cảm vợ chồng với anh H và yêu cầu Tòa án giải quyết cho ly hôn anh H.

Về con chung: Chị N xác định giữa chị và anh H có với nhau 01 con chung tên Trần Nguyễn Hàn Ng, sinh ngày 16/11/2016; sau khi ly hôn, chị N yêu cầu được quyền nuôi dưỡng con chung và không yêu cầu anh H cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung, nợ chung: Chị N không yêu cầu Tòa án giải quyết trong vụ án này.

Đối với bị đơn: Sau khi thụ lý vụ án, Tòa án đã tống đạt hợp lệ thông báo thụ lý vụ án, thông báo hòa giải, giấy triệu tập và Quyết định đưa vụ án ra xét xử, Quyết định hoãn phiên tòa cho bị đơn Trần Đức H, tuy Nên anh H không cung cấp ý kiến, tài liệu chứng cứ để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của anh H đối với yêu cầu khởi kiện của chị N.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Đức Linh, tỉnh Bình Thuận phát biểu ý kiến:

Về việc tuân theo pháp luật tố tụng: Thẩm phán, Thư ký Tòa án và Hội đồng xét xử trong quá trình thụ lý, giải quyết vụ án đã thực hiện đầy đủ trình tự thủ tục tố tụng được pháp luật quy định tại Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015. Nguyên đơn đã thực hiện đúng các quy định tại các điều 70, 71 Bộ luật Tố tụng dân sự; bị đơn chưa thực hiện đúng các quy định tại các điều 70, 72 Bộ luật Tố tụng dân sự.

Ý kiến về việc giải quyết vụ án: Đề nghị Hội đồng xét xử xem xét và chấp nhập yêu cầu khởi kiện của bà Ngân, cụ thể:

Về hôn nhân: Chị Nguyễn Thị Tuyết N ly hôn anh Trần Đức H.

Về con chung: Giao cho chị Nguyễn Thị Tuyết N quyền, nghĩa vụ trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục con chung tên Trần Nguyễn Hàn Ng, sinh ngày 16/11/2016. Anh Trần Đức H có quyền, nghĩa vụ thăm nom con.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về quan hệ tranh chấp và thẩm quyền giải quyết:

Nguyên đơn chị Nguyễn Thị Tuyết N khởi kiện ly hôn, tranh chấp về nuôi con với bị đơn Trần Đức H; anh H có nơi cư trú tại khu phố 2, thị trấn ĐT, huyện Đức Linh, tỉnh Bình Thuận.

Căn cứ các Điều 51, 56, 57, 58, 81, 82, 83, 84 của Luật Hôn nhân và gia đình và khoản 1 Điều 26, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015, Hội đồng xét xử xác định đây là vụ án ly hôn, tranh chấp về nuôi con, thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Đức Linh, tỉnh Bình Thuận.

[2] Về tố tụng: Bị đơn là Trần Đức H đã được tống đạt thông báo thụ lý vụ án; các thông báo phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận công khai chứng cứ và hòa giải; quyết định đưa vụ án ra xét xử; giấy triệu tập tham gia phiên tòa nhưng vẫn vắng mặt, mặc dù đã được triệu tập hợp lệ lần thứ 2.

Căn cứ Điều 227 của Bộ luật Tố tụng dân sự 2015, Tòa án nhân dân huyện Đức Linh xét xử vắng mặt bị đơn Trần Đức H.

[3] Về chứng cứ: Bị đơn không nộp tài liệu, chứng cứ và văn bản ý kiến của mình đối với yêu cầu của nguyên đơn. Tòa án căn cứ tài liệu, chứng cứ mà đương sự đã giao nộp và Tòa án đã thu thập theo khoản 1 Điều 96 của Bộ luật Tố tụng dân sự để xét xử vụ án.

[4] Về nội dung: Căn cứ vào tài liệu, chứng cứ do nguyên đơn cung cấp có trong hồ sơ vụ án, Hội đồng xét xử nhận định nội dung vụ án như sau:

[4.1] Về hôn nhân: Căn cứ bản sao giấy chứng nhận kết hôn số 139 do Ủy ban nhân dân thị trấn ĐT cấp vào ngày 01/11/2016, có căn cứ khẳng định chị N và anh H kết hôn vào năm 2016, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân thị trấn Đ T. Do đó, quan hệ hôn nhân giữa chị N và anh H được công nhận là hôn nhân hợp pháp và được pháp luật bảo vệ.

Chị N và anh H tự nguyện tìm hiểu, yêu thương nhau và đi đến hôn nhân; sau khi tổ chức lễ cưới thì anh chị sống chung với nhau như vợ chồng không được bao lâu thì phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân mâu thuẫn theo lời khai của chị N là do anh H không lo cho gia đình, hai anh chị không hợp nhau; chị N cho rằng giữa chị và anh H hiện không còn quan hệ như vợ chồng, hai bên đã ly thân từ năm 2018, thời gian ly thân hai bên không có thiện chí hàn gắn lại quan hệ tình cảm, qua hòa giải và tại phiên tòa chị N đều xác định tình cảm vợ chồng không còn và kiên quyết yêu cầu được ly hôn anh H; qua nội dung xác minh đối với ông Trần Đức H1 (cha ruột của anh Trần Đức H) vào ngày 01/3/2022 (Bút lục 31) thì thấy rằng mâu thuẫn hôn nhân giữa chị N và anh H là có thật.

Trong quá trình giải quyết vụ án, anh H không tham gia hòa giải và không tham gia phiên tòa hôm nay, mặc dù anh H đã biết được yêu cầu khởi kiện ly hôn của chị N. Điều đó cho thấy anh H cũng không thiết tha hàn gắn, níu kéo tình cảm vợ chồng, chăm sóc con cái và xây dựng gia đình hạnh phúc.

Từ những phân tích trên cho thấy quan hệ hôn nhân giữa chị N và anh H đã thật sự lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được. Do đó, căn cứ khoản 1 Điều 56 của Luật hôn nhân và gia đình năm 2014, Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu ly hôn của chị N đối với anh H.

[4.2] Về con chung: Căn cứ giấy khai sinh số 711 do Ủy ban nhân dân thị trấn ĐT cấp ngày 28/11/2016 thì có căn cứ khẳng định cháu Trần Nguyễn Hàn Ng, sinh ngày 16/11/2016 là con chung của chị N và anh H; tại thời điểm giải quyết ly hôn thì cháu Nghi còn dưới 7 tuổi, do đó Tòa án không ghi nhận ý kiến của cháu về việc nguyện vọng sống với ai sau khi cha mẹ ly hôn.

Sau khi ly hôn, chị N yêu cầu được tiếp tục nuôi con, không yêu cầu anh H cấp dưỡng nuôi con. Tòa án chưa ghi nhận ý kiến của anh H về vấn đề con chung. Xét thấy, công việc và thu nhập hiện tại của chị N ổn định, đủ điều kiện nuôi con chung. Ngoài ra, khi chị N và anh H sống ly thân thì cháu Ng sinh sống cùng với mẹ, cuộc sống vật chất và tinh thần ổn định, do đó không nên làm xáo trộn cuộc sống của con chung. Căn cứ vào quyền lợi mọi mặt của con theo quy định tại khoản 2 Điều 81 Luật hôn nhân gia đình năm 2014, Hội đồng xét xử chấp nhận giao cho chị N quyền, nghĩa vụ trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục cháu Ng. Anh H không trực tiếp nuôi con chung nhưng anh H vẫn có quyền, nghĩa vụ thăm nom con theo quy định tại Điều 82 của Luật hôn nhân và gia đình năm 2014.

[4.3] Về cấp dưỡng nuôi con: Tại phiên tòa, chị N không yêu cầu anh H cấp dưỡng nuôi con, do đó Hội đồng xét xử ghi nhận sự tự nguyện của chị N và không xem xét giải quyết trong bản án này.

[4.4] Về tài sản chung và nợ: Hội đồng xét xử ghi nhận ý kiến của chị N về việc không yêu cầu Tòa án giải quyết tài sản và nợ trong vụ án này.

[5] Về án phí: Căn cứ vào Điều 147 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 và điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội khoá 14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, nguyên đơn Nguyễn Thị Tuyết N phải chịu án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm theo quy định.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, khoản 1 Điều 39, các Điều 143, 144, 147, 235, 266, 271, 273 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015;

Áp dụng các Điều 9, 51, 53, 54, 56, 58, 81, 82, 83, 84 của Luật hôn nhân gia đình năm 2014;

Áp dụng điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội khoá 14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Áp dụng Điều 26 Luật thi hành án dân sự.

Tuyên xử: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Nguyễn Thị Tuyết N.

1. Về hôn nhân: Chị Nguyễn Thị Tuyết N ly hôn anh Trần Đức H.

Giấy chứng nhận kết hôn số 139 do Ủy ban nhân dân thị trấn ĐTcấp vào ngày 01/11/2016, cấp cho chị Nguyễn Thị Tuyết N và anh Trần Đức H hết hiệu lực kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật.

2. Về con chung: Giao cho chị Nguyễn Thị Tuyết N quyền, nghĩa vụ trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục con chung tên Trần Nguyễn Hàn Ng, sinh ngày 16/11/2016.

Người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở. Trong trường hợp lạm dụng việc thực hiện quyền này để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con thì người trực tiếp nuôi con hoặc cá nhân, tổ chức được quy định tại Điều 86 Luật hôn nhân và gia đình có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom con chưa thành niên của người không trực tiếp nuôi con.

Vì lợi ích của con, khi có lý do chính đáng, một hoặc cả hai bên có quyền yêu cầu Tòa án thay đổi người trực tiếp nuôi con hoặc mức cấp dưỡng nuôi con.

3. Ghi nhận ý kiến của chị Nguyễn Thị Tuyết N về việc không yêu cầu anh Trần Đức H cấp dưỡng nuôi con, không yêu cầu Toà án giải quyết vấn đề tài sản, nợ chung trong vụ án này.

4. Về án phí: Chị Nguyễn Thị Tuyết N phải chịu 300.000đồng án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm, được trừ vào số tiền 300.000đồng tiền tạm ứng án phí đã nộp tại biên lai thu số 0009170 ngày 24/02/2022 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Đức Linh, tỉnh Bình Thuận. Chị N đã nộp đủ tiền án phí.

5. Đương sự có mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án (29/4/2022). Đương sự vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án này trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được bản án hoặc kể từ ngày bản án được niêm yết, để Tòa án cấp trên xét xử theo trình tự phúc thẩm.

6. Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7 và 9 luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

145
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con số 64/2022/HNGĐ-ST

Số hiệu:64/2022/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Đức Linh - Bình Thuận
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 29/04/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;