Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con số 63/2024/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ TÂN UYÊN, TỈNH BÌNH DƯƠNG

BẢN ÁN 63/2024/HNGĐ-ST NGÀY 27/06/2024 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON

Ngày 27 tháng 6 năm 2024, tại trụ sở Toà án nhân dân thành phố Tân Uyên, tỉnh Bình Dương tiến hành phiên tòa sơ thẩm công khai xét xử vụ án hôn nhân và gia đình thụ lý số 103/2024/TLST-HNGĐ ngày 09 tháng 4 năm 2024 về việc ly hôn, tranh chấp về nuôi con theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 44/2024/QĐXX-ST ngày 03 tháng 6 năm 2024, giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Bà Trần Thị N, sinh năm 1994; nơi thường trú: Thôn B, xã B, Hện T, tỉnh Quảng Nam; nơi tạm trú: Nhà trọ N, tổ 3, khu phố T, phường T, thành phố Tân Uyên, tỉnh Bình Dương; có đơn xin vắng mặt.

- Bị đơn: Ông Huỳnh Thanh H, sinh năm 1997; nơi thường trú: Ấp T, xã T, Hện T, tỉnh Sóc Trăng; nơi tạm trú: Nhà trọ T, tổ 4, khu phố Tân Hoá, phường T, thành phố T, tỉnh Bình Dương; vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện ngày 15 tháng 01 năm 2024 và các lời khai trong quá trình giải quyết vụ án nguyên đơn bà Trần Thị N trình bày:

- Về quan hệ hôn nhân: Bà Trần Thị N tự nguyện chung sống, có tổ chức lễ cưới, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã T, huyện T, tỉnh Sóc Trăng theo giấy chứng nhận kết hôn số 46/2018, ngày 02/5/2018. Thời gian đầu vợ chồng chung sống hạnh phúc, yêu thương chăm sóc nhau nhưng từ đầu năm 2022 giữa bà N và ông H thường xuyên xảy ra mâu thuẫn, nguyên nhân là do vợ chồng bất đồng ý kiến, không tôn trọng lẫn nhau. Vợ chồng đã ly thân không ai quan tâm đến ai nữa. Bà N nhận thấy tình cảm không còn, mâu thuẫn vợ chồng ngày càng trầm trọng, mục đích hôn nhân không đạt được, đời sống chung không thể kéo dài nên bà N yêu cầu được ly hôn với ông Huỳnh Thanh H.

- Về con chung: Vợ chồng có 01 con chung tên Huỳnh Thanh H1, sinh ngày 21/4/2016. Yêu cầu Toà án giải quyết giao con chung Huỳnh Thanh H1 cho ông Huỳnh Thanh H trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc. Bà Trần Thị N cấp dưỡng nuôi con với số tiền 2.000.000/tháng đến khi con đủ 18 tuổi.

- Về tài sản chung và nợ chung: Không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Bị đơn ông Huỳnh Thanh H đã được Tòa án tống đạt các văn bản tố tụng, niêm yết thông báo thụ lý vụ án, thông báo về phiên hòa giải, phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải, chuyển giao tài liệu, chứng cứ nguyên đơn khởi kiện, thông báo về kết quả phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và quyết định đưa vụ án ra xét xử, quyết định hoãn phiên tòa nhưng ông H không đến Tòa án, cũng không nộp văn bản trình bày ý kiến của mình đối với yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn. Ông H vắng mặt tại phiên tòa không có lý do chính đáng.

Theo biên bản xác minh tại Ủy ban nhân dân và Công an phường Tân Vĩnh Hiệp, thành phố Tân Uyên, tỉnh Bình Dương, được cung cấp thông tin như sau: Ông Huỳnh Thanh H có tạm trú và sinh sống tại nhà trọ T, tổ 4, khu phố Tân Hóa, phường Tân Vĩnh Hiệp, thành phố Tân Uyên, tỉnh Bình Dương, hiện tại ông H vẫn còn tạm trú tại địa chỉ trên và đi làm công nhân tại Cảng Thạnh Phước thuộc phường Thạnh Phước, thành phố Tân Uyên, tỉnh Bình Dương. Quá trình sinh sống tại địa phương Uỷ ban nhân dân phường Tân Vĩnh Hiệp không nhận được đơn thư hay phản ánh của bà N cũng như ông H liên quan đến quan hệ hôn nhân, nuôi con chung. Do đó, địa phương không biết giữa vợ chồng ông bà có tên nêu trên mâu thuẫn như thế nào.

Theo bản tự khai của cháu Huỳnh Thanh H1 trình bày: Hiện tại cháu đang sống với ba và bà nội, nếu ba mẹ ly hôn, cháu có nguyện vọng được sống với ba là ông Huỳnh Thanh H.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Tân Uyên, tỉnh Bình Dương phát biểu tại phiên tòa:

- Về thủ tục tố tụng: Quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa, những người tiến hành tố tụng và tham gia tố tụng đã chấp hành đúng quy định của pháp luật tố tụng dân sự; Thẩm phán xác định quan hệ pháp luật đúng theo quy định tại Điều 28 Bộ luật Tố tụng dân sự và vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân thành phố Tân Uyên.

- Về nội dung: Căn cứ hồ sơ vụ án, các tài liệu, chứng cứ đã được xác minh thu thập, hòa giải được Hội đồng xét xử xem xét và kết quả tranh luận của người tham gia tố tụng, xét thấy yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn là có căn cứ chấp nhận.

Căn cứ khoản 1 Điều 56, Điều 81 Luật hôn nhân và gia đình, đề nghị Hội đồng xét xử, tuyên: Về quan hệ hôn nhân: Bà Trần Thị N được ly hôn với ông Huỳnh Thanh H; về con chung: Giao con chung tên Huỳnh Thanh H1, sinh ngày 21/4/2016 cho ông H được trực tiếp nuôi dưỡng; bà N cấp dưỡng nuôi con mỗi tháng 2.000.000 đồng đến khi con đủ 18 tuổi; về tài sản chung và nợ chung: Không yêu cầu Tòa án giải quyết nên không đặt ra xem xét.

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, ý kiến của đại diện Viện kiểm sát.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Về quan hệ pháp luật và thẩm quyền giải quyết:

Bà Trần Thị N có đơn khởi kiện yêu cầu ly hôn với ông Huỳnh Thanh H và yêu cầu giao quyền nuôi con sau khi ly hôn. Do đó, Hội đồng xét xử xác định quan hệ tranh chấp là “Ly hôn và tranh chấp về nuôi con” theo quy định tại khoản 1 Điều 28 Bộ luật tố tụng dân sự.

Theo kết quả xác minh và quá trình giải quyết vụ án xác định, ông Huỳnh Thanh H, sinh năm 1982 có đăng ký tạm trú tại nhà trọ T, tổ 4, khu phố Tân Hóa, phường Tân Vĩnh Hiệp, thành phố Tân Uyên, tỉnh Bình Dương. Do đó, vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân thành phố Tân Uyên theo quy định tại Điều 35 và Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự.

[2] Về việc vắng mặt của các đương sự: Bị đơn ông Huỳnh Thanh H được triệu tập tham gia phiên tòa nhưng vẫn vắng mặt không có lý do chính đáng, nguyên đơn có đơn xin vắng mặt. Do đó, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt, nguyên đơn, bị đơn theo quy định tại Điều 227, 228 Bộ luật Tố tụng dân sự.

[3] Về quan hệ hôn nhân: Bà Trần Thị N và ông Huỳnh Thanh H chung sống với nhau trên cơ sở được tìm hiểu tự nguyện, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã T, huyện T, tỉnh Sóc Trăng theo giấy chứng nhận kết hôn số 46/2018, ngày 02/5/2018. Theo quy định tại các Điều 8 và 9 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014, đây là hôn nhân hợp pháp.

[4] Về mâu thuẫn vợ chồng: Bà Trần Thị N xác định đời sống hôn nhân giữa bà và chồng là ông Huỳnh Thanh H không còn hạnh phúc. Từ đầu năm 2022 cho đến nay, vợ chồng thường xuyên phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn là do không có tiếng nói chung, luôn bất đồng quan điểm, vợ chồng không tôn trọng nhau, không tin tưởng nhau về kinh tế trong gia đình. Vợ chồng đã ly thân. Cả hai đã đưa ra nhiều giải pháp để hàn gắn tình cảm vợ chồng nhưng không đạt kết quả nên bà N khởi kiện yêu cầu được ly hôn với ông Huỳnh Thanh H.

Quá trình giải quyết vụ án, mặc dù đã được Tòa án tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng nhưng ông H vẫn không đến Tòa án, cho thấy ông H không muốn hàn gắn hạnh phúc gia đình. Về phía bà N, trong quá trình tố tụng xác định hoàn toàn không còn tình cảm và không muốn tiếp tục chung sống với ông H. Xét thấy, quan hệ hôn nhân tồn tại bền vững dựa trên tình cảm của vợ chồng, sự yêu thương, chăm sóc lẫn nhau giữa vợ và chồng nhưng quan hệ hôn nhân của bà N và ông H đã không đạt được các yếu tố của một gia đình hạnh phúc. Do đó, có căn cứ xác định mâu thuẫn giữa bà N và ông H đã trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được, bà N có đơn khởi kiện yêu cầu được ly hôn với ông H là có cơ sở chấp nhận.

[5] Về việc nuôi dưỡng con chung: Vợ chồng có 01 con chung tên Huỳnh Thanh H1, sinh ngày 21/4/2016. Hiện tại, con chung đang sống với ông H. Khi ly hôn, bà N yêu cầu ông H là người trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc con chung, bà N cấp dưỡng nuôi con mỗi tháng 2.000.000 đồng cho đến khi con đủ 18 tuổi.

Theo khoản 2 Điều 81 Luật hôn nhân và gia đình quy định “Vợ, chồng thỏa thuận về người trực tiếp nuôi con, nghĩa vụ, quyền của mỗi bên sau khi ly hôn đối với con; trường hợp không thỏa thuận được thì Tòa án quyết định giao con cho một bên trực tiếp nuôi căn cứ vào quyền lợi về mọi mặt của con; nếu con từ đủ 07 tuổi trở lên thì phải xem xét nguyện vọng của con”.

Xét thấy, hiện tại cháu Huỳnh Thanh H1 đang sống với ông H và có nguyện vọng được sống với ông H. Do đó, để đảm bảo cuộc sống ổn định và không làm xáo trộn việc học hành của cháu nên giao cháu H1 cho ông H trực tiếp nuôi dưỡng, bà N cấp dưỡng nuôi con mỗi tháng 2.000.000 đồng cho đến khi con đủ 18 tuổi.

[6] Về tài sản chung, nợ chung: Không yêu cầu nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét.

[7] Xét, đề nghị của đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa là có căn cứ, phù hợp pháp luật nên Hội đồng xét xử chấp nhận.

[8] Về án phí sơ thẩm: Nguyên đơn bà Trần Thị N phải chịu án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào:

- Các điều 28, 35, 39, 146, 147, 228, 266, 271 và Điều 273 của Bộ luật Tố tụng dân sự;

- Các điều 56, 57, 81, 82, 83, 84, 85 và Điều 86 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014;

- Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội khóa 14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí của Tòa án.

Tuyên xử:

1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn bà Trần Thị N về việc “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con” với bị đơn ông Huỳnh Thanh H như sau:

- Về quan hệ hôn nhân: Bà Trần Thị N được ly hôn với ông Huỳnh Thanh H.

- Về việc nuôi con chung: Giao con chung tên Huỳnh Thanh H1, sinh ngày 21/4/2016 cho ông Huỳnh Thanh H được trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc con chung. Bà Trần Thị N cấp dưỡng nuôi con mỗi tháng 2.000.000 đồng cho đến khi con đủ 18 tuổi.

Bà Trần Thị N và ông Huỳnh Thanh H đều có quyền và nghĩa vụ trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con theo quy định của pháp luật. Sau khi ly hôn, người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở. Người không trực tiếp nuôi con lạm dụng việc thăm nom để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con thì người đang trực tiếp nuôi con có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom con của người đó. Vì lợi ích của con chưa thành niên, Tòa án có thể quyết định thay đổi người trực tiếp nuôi con và mức cấp dưỡng nuôi con khi có đơn yêu cầu.

- Về tài sản chung, nợ chung: Không yêu cầu nên Hội đồng xét xử không đề cập giải quyết.

2. Về án phí sơ thẩm: Bà Trần Thị N phải chịu 300.000 đồng (ba trăm nghìn đồng) án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm; khấu trừ vào số tiền 300.000 đồng (ba trăm nghìn đồng) đã nộp theo Biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số 0001232 ngày 01-4-2024 của Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Tân Uyên, tỉnh Bình Dương.

3. Về quyền kháng cáo: Các đương sự vắng mặt tại phiên toà có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày bản án được tống đạt hợp lệ.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 của Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6,7 và 9 của Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 của Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

24
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con số 63/2024/HNGĐ-ST

Số hiệu:63/2024/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thị xã Tân Uyên - Bình Dương
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 27/06/2024
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: [email protected]
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;