Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con số 59/2022/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN THUỶ NGUYÊN, THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG

BẢN ÁN 59/2022/HNGĐ-ST NGÀY 12/04/2022 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON

Ngày 12 tháng 4 năm 2022 tại Trụ sở Toà án nhân dân huyện Thuỷ Nguyên, thành phố Hải Phòng xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 491/2021/TLST- HNGĐ ngày 22 tháng 12 năm 2021 về Ly hôn, tranh chấp về nuôi con theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 45/2022/QĐXXST-HNGĐ ngày 22 tháng 3 năm 2022, giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Chị Trần Thị Ngọc T sinh năm 1990; địa chỉ: Thôn Đ, xã Q, thành phố H, tỉnh Hải Dương; Vắng mặt.

- Bị đơn: Anh Bùi Văn T sinh năm 1993; địa chỉ: Tổ dân phố Q, thị trấn M, huyện T, thành phố Hải Phòng; Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong đơn khởi kiện ngày 02 tháng 12 năm 2021 cùng các lời khai tại Toà án nhân dân huyện Thuỷ Nguyên, chị Trần Thị Ngọc T (nguyên đơn) trình bày:

Về hôn nhân: Chị Trần Thị Ngọc T và anh Bùi Văn T kết hôn với nhau trên cơ sở tự nguyện tìm hiểu, được tổ chức lễ cưới theo phong tục địa phương, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã Quyết Thắng, huyện Thanh Hà, tỉnh Hải Dương theo Giấy chứng nhận kết hôn số 48 ngày 09 tháng 7 năm 2014. Sau khi cưới vợ chồng chung sống tại tổ dân phố Q, thị trấn M, huyện T, thành phố Hải Phòng. Quá trình chung sống, vợ chồng hoà thuận, hạnh phúc đến cuối năm 2017 thì phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân mâu thuẫn do tính tình không hợp, bất đồng quan điểm trong cuộc sống. Mâu thuẫn vợ chồng đã được hòa giải nhiều lần nhưng không có kết quả. Do mâu thuẫn căng thẳng nên vợ chồng đã ly thân từ cuối năm 2017 đến nay. Nay chị xác định tình cảm vợ chồng không còn nên chị đề nghị Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn với anh Bùi Văn T.

Về con chung: Chị Trần Thị Ngọc T và anh Bùi Văn T có một con chung tên là Bùi Trần Ngọc D sinh ngày 12/4/2015. Hiện con đang khỏe mạnh và phát triển bình thường và do chị Trần Thị Ngọc T nuôi dưỡng. Khi ly hôn, chị Trần Thị Ngọc T đề nghị được trực tiếp nuôi dưỡng con chung. Về nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chung, chị đề nghị để chị và anh Bùi Văn T tự thỏa thuận giao nhận cho nhau, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Về tài sản chung: Chị Trần Thị Ngọc T không đề nghị Tòa án giải quyết khi ly hôn.

Trong đơn đề nghị đề ngày 11 tháng 01 năm 2022, anh Bùi Văn T (bị đơn) trình bày:

Anh Bùi Văn T thừa nhận toàn bộ lời trình bày của chị Trần Thị Ngọc T là đúng. Nay chị Trần Thị Ngọc T đề nghị ly hôn, anh đồng ý ly hôn. Về nuôi con chung, nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chung anh có quan điểm như chị Trần Thị Ngọc T đề nghị. Về tài sản chung anh không đề nghị Tòa án giải quyết trong vụ án này.

Kiểm sát viên phát biểu ý kiến: Trong quá trình giải quyết vụ án kể từ khi thụ lý cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án thì Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa và nguyên đơn, bị đơn đã tuân theo đúng quy định của pháp luật tố tụng. Về việc giải quyết nội dung vụ án thì đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 1 Điều 28, khoản 1 Điều 35, khoản 1 Điều 39, Điều 92, Điều 147, Điều 228, Điều 238 Bộ luật Tố tụng dân sự; khoản 1 Điều 51, Điều 56, Điều 81, Điều 82, Điều 83 Luật Hôn nhân và gia đình; Khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội: Cho ly hôn giữa chị Trần Thị Ngọc T và anh Bùi Văn T. Giao con chung tên là Bùi Trần Ngọc D sinh ngày 12/4/2015 cho chị Trần Thị Ngọc T trực tiếp nuôi dưỡng. Nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chung chị Trần Thị Ngọc T và anh Bùi Văn T tự thỏa thuận giao nhận cho nhau. Về tài sản chung vợ chồng do Tòa án không thụ lý giải quyết khi ly hôn nên Kiểm sát viên không đề cập giải quyết trong vụ án này. Nguyên đơn phải chịu án phí ly hôn sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Về các tài liệu, chứng cứ và tình tiết của vụ án:

Các tình tiết, sự kiện không phải chứng minh, các tình tiết mà các bên đã thống nhất: Về quan hệ hôn nhân, con chung và lý do đề nghị Tòa án giải quyết các quan hệ đó phù hợp với các chứng cứ, tài liệu mà đương sự giao nộp, phù hợp với tài liệu do Tòa án thu thập được nên thuộc trường hợp không phải chứng minh; Quan hệ tài sản chung vợ chồng đương sự không yêu cầu giải quyết nên không đặt vấn đề phải chứng minh.

Các tình tiết mà các bên không thống nhất: Không có.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về tố tụng: Đây là vụ án Ly hôn, tranh chấp về nuôi con quy định tại khoản 1 Điều 28 Bộ luật Tố tụng dân sự thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Thủy Nguyên, thành phố Hải Phòng. Chị Trần Thị Ngọc T, anh Bùi Văn T vắng mặt tại phiên tòa và có đơn đề nghị giải quyết vắng mặt; Căn cứ Điều 228 và Điều 238 Bộ luật Tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt chị Trần Thị Ngọc T và anh Bùi Văn T.

[2] Về hôn nhân: Quan hệ hôn nhân giữa chị Trần Thị Ngọc T và anh Bùi Văn T được xác lập theo Giấy chứng nhận kết hôn số 48 ngày 09 tháng 7 năm 2014 của Ủy ban nhân dân xã Quyết Thắng, huyện Thanh Hà, tỉnh Hải Dương là hợp pháp. Quá trình chung sống vợ chồng hòa thuận đến cuối năm 2017 thì phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân mâu thuẫn do tính tình không hợp, bất đồng quan điểm trong cuộc sống nên thường xảy ra va chạm, mâu thuẫn trở nên căng thẳng, trầm trọng dẫn đến việc vợ chồng sống ly thân từ cuối năm 2017 đến nay. Tình cảm vợ chồng không còn, mâu thuẫn vợ chồng đã kéo dài và trầm trọng, hôn nhân không có hạnh phúc, mục đích của hôn nhân không đạt được nên chị Trần Thị Ngọc T xin ly hôn với anh Bùi Văn T và anh Bùi Văn T đồng ý ly hôn. Căn cứ vào thực tế của quan hệ hôn nhân, nguyện vọng của các bên và quy định của pháp luật, áp dụng Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình chấp nhận yêu cầu ly hôn của chị Trần Thị Ngọc T với anh Bùi Văn T.

[3] Về con chung: Chị Trần Thị Ngọc T và anh Bùi Văn T có một con chung tên là Bùi Trần Ngọc D sinh ngày 12/4/2015. Khi ly hôn chị Trần Thị Ngọc T đề nghị được trực tiếp nuôi dưỡng con chung và anh Bùi Văn T đồng ý. Tài liệu, chứng cứ và lời trình bày của các đương sự thể hiện chị Trần Thị Ngọc T có điều kiện nuôi con, hiện con đang khỏe mạnh, phát triển bình thường và đang do chị Trần Thị Ngọc T nuôi dưỡng. Căn cứ vào tình hình thực tế, nguyện vọng của các bên và quy định của pháp luật nên áp dụng Điều 81, Điều 82, Điều 83 Luật Hôn nhân và gia đình giao con chung cho chị Trần Thị Ngọc T trực tiếp nuôi dưỡng.

Nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chung, chị Trần Thị Ngọc T và anh Bùi Văn T trình bày để tự thỏa thuận không có yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

[4] Về tài sản chung: Chị Trần Thị Ngọc T và anh Bùi Văn T không có yêu cầu Tòa án giải quyết trong vụ án này nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

[5] Về án phí: Căn cứ Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án, chị Trần Thị Ngọc T phải chịu 300.000 đồng án phí ly hôn sơ thẩm.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 1 Điều 28, khoản 1 Điều 35, khoản 1 Điều 39, Điều 92, Điều 147, Điều 228, Điều 238 Bộ luật Tố tụng dân sự; Khoản 1 Điều 51, Điều 56, Điều 81, Điều 82, Điều 83 Luật Hôn nhân và gia đình; Khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án; Xử:

1. Về hôn nhân: Cho ly hôn giữa chị Trần Thị Ngọc T và anh Bùi Văn T.

2. Về nuôi con chung:

2.1. Giao con chung tên là Bùi Trần Ngọc D sinh ngày 12/4/2015 cho chị Trần Thị Ngọc T trực tiếp nuôi dưỡng. Việc trực tiếp nuôi con chung được thực hiện cho đến khi con chung đủ 18 tuổi hoặc có thay đổi khác theo quy định của pháp luật. Sau khi ly hôn, người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở.

2.2. Nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chung chị Trần Thị Ngọc T và anh Bùi Văn T tự thoả thuận giao nhận.

3. Về tài sản chung: Chị Trần Thị Ngọc T và anh Bùi Văn T không yêu cầu Tòa án giải quyết trong vụ án này nên Hội đồng xét xử không xem xét, giải quyết.

4. Về án phí: Chị Trần Thị Ngọc T phải chịu 300.000 (Ba trăm nghìn) đồng án phí ly hôn sơ thẩm, được trừ vào số tiền tạm ứng án phí 300.000 đồng chị Trần Thị Ngọc T đã nộp tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Thuỷ Nguyên, thành phố Hải Phòng tại Biên lai số 0007705 ngày 17 tháng 12 năm 2021; Chị Trần Thị Ngọc T đã nộp đủ án phí.

5. Về quyền kháng cáo: Chị Trần Thị Ngọc T, anh Bùi Văn T không có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn là 15 ngày, tính từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành dân sự, người phải thi hành dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các các điều 6, 7, 7a và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

116
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con số 59/2022/HNGĐ-ST

Số hiệu:59/2022/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Thuỷ Nguyên - Hải Phòng
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 12/04/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;