Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con số 58/2022/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ PHAN RANG - THÁP CHÀM, TỈNH NINH THUẬN

BẢN ÁN 58/2022/HNGĐ-ST NGÀY 27/07/2022 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON

Ngày 27 tháng 7 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Phan Rang - Tháp Chàm, tỉnh Ninh Thuận xét xử sơ thẩm công khai vụ án hôn nhân gia đình thụ lý số 268/2022/TLST- HNGĐ ngày 07 tháng 4 năm 2022 về việc “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 54/2022/QĐXXST-HNGĐ ngày 12-7-2022, giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Bà Nguyễn Thị Phương U, sinh năm: 1994 (vắng mặt và có đơn xét xử vắng mặt).

Hộ khẩu thường trú: Khu phố 11, phường Văn H, thành phố P, tỉnh Ninh Thuận.

Nơi cư trú: Khu phố 3, phường Phủ H, thành phố P, tỉnh Ninh Thuận.

- Bị đơn: Ông Lê Thành L, sinh năm 1985 (vắng mặt và có yêu cầu giải quyết vắng mặt).

Nơi cư trú: Khu phố 11, phường Văn H, thành phố P, tỉnh Ninh Thuận.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại đơn khởi kiện đề ngày 01-4-2022 và trong quá trình giải quyết vụ án cũng như tại phiên tòa nguyên đơn bà Nguyễn Thị Phương U trình bày:

Bà Nguyễn Thị Phương U và ông Lê Thành L chung sống với nhau không cưới hỏi nhưng có đăng ký kết hôn tại Uỷ ban nhân dân phường Văn H năm 2014.

Sau khi kết hôn vợ chồng chung sống với ba mẹ chồng tại khu phố 11, phường Văn H, thành phố P. Quá trình chung sống không hạnh phúc do ông L rượu chè và hay đánh đập vợ con. Bà đã khuyên can nhiều lần nhưng ông L vẫn không thay đổi. Đến đầu năm 2022 thì bà bỏ về nhà cha ruột sống tại khu phố 3, phường Phủ H, thành phố P cho đến nay.

Từ lúc không sống chung, bà và ông L mạnh ai nấy sống, không quan tâm, chăm sóc gì đến nhau.

Nay bà yêu cầu được ly hôn vì vợ chồng đã hết tình cảm, không thể hàn gắn được nữa.

Về con chung: Vợ chồng có 02 con chung tên Lê Trọng T, sinh ngày 07- 11-2013; Lê Thành B, sinh ngày 03-01-2018. Hiện nay cả 02 cháu đều do ông L nuôi dưỡng.

Trước đây bà bán vé số nhưng do bị bệnh nên mà thất nghiệp và đang phải điều trị bệnh. Thời điểm nộp đơn ly hôn, bà muốn nuôi 01 con chung tên Bảo nhưng do hiện nay đang bệnh tật bà không thể nuôi cháu B được. Nếu được ly hôn bà xin giao cả 02 con chung cho ông L nuôi và bà không cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung, nợ chung: không yêu cầu Toà án giải quyết.

Tại Biên bản lấy lời khai ngày 19-7-2022, bị đơn ông Lê Thành L trình bày: Ông và bà Nguyễn Thị Phương U chung sống với nhau vào năm 2014 có đăng ký kết hôn tại Uỷ ban nhân dân phường Văn H. Sau khi kết hôn, vợ chồng chung sống với ba mẹ ông tại khu phố 11, phường Văn H, thành phố P. Quá trình chung sống hạnh phúc đến năm 2011 thì xảy ra mâu thuẫn do bà U bỏ nhà đi, không còn thăm và gặp các con. Nay bà U nộp đơn ly hôn thì ông đồng ý ly hôn do đã hết tình cảm.

Về con chung: có 02 cháu hiện nay đang chung sống với ông là Lê Trọng T, sinh năm 2013 và Lê Thành B, sinh năm 2018. Ông muốn được nuôi cả 02 con và không cần bà U cấp dưỡng. Do công việc bận rộn, lại đi làm liên tục, không thể tiếp tục tới Toà án để làm việc, hoà giải hay tham gia phiên toà. Ông đề nghị Toà án xét xử vắng mặt tại phiên toà ngày 27-7-2022.

Về tài sản chung và nợ chung: ông không yêu cầu giải quyết.

Ý kiến của Đại diện Viện kiểm sát: Từ khi thụ lý vụ án đến trước khi Hội đồng xét xử nghị án, Thẩm phán, Thư ký, Hội đồng xét xử đều tuân thủ đúng các quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự. Nguyên đơn chấp hành đúng quy định của Bộ luật tố tụng dân sự. Do nguyên đơn và bị đơn có yêu cầu xét xử vắng mặt, đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ khoản 1 Điều 227 Bộ luật Tố tụng dân sự giải quyết vắng mặt.

Về quan điểm giải quyết nội dung vụ án: Yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn là có căn cứ, phù hợp pháp luật nên đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa, lời trình bày và kết quả tranh tụng tại phiên tòa, ý kiến của Kiểm sát viên, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về thủ tục tố tụng.

[1.1] Xác định quan hệ pháp luật tranh chấp và thẩm quyền giải quyết: Nguyên đơn bà Nguyễn Thị Phương U khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn, nuôi con với bị đơn ông Lê Thành L. Hội đồng xét xử xác định quan hệ pháp luật là tranh chấp “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con” theo khoản 1 Điều 28 Bộ luật Tố tụng dân sự. Bị đơn hiện đang cư trú tại phường Văn H, thành phố P nên thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân thành phố Phan Rang - Tháp Chàm theo khoản 1 Điều 35, khoản 1 Điều 39 Bộ luật Tố tụng dân sự.

[1.2] Xử lý về việc vắng mặt của bị đơn: Từ khi thụ lý vụ án cho đến thời điểm mở phiên tòa sơ thẩm Tòa án nhân dân thành phố Phan Rang - Tháp Chàm đã thông báo, tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng nhưng ông L vắng mặt và có yêu cầu giải quyết vắng mặt. Hội đồng xét xử căn cứ vào khoản 1 Điều 227 của Bộ luật Tố tụng dân sự, cùng với tài liệu, chứng cứ đã được thu thập trong hồ sơ vụ án để làm cơ sở giải quyết và xét xử vắng mặt bị đơn theo quy định của pháp luật.

[2] Về nội dung tranh chấp:

[2.1] Bà Nguyễn Thị Phương U và ông Lê Thành L kết hôn trên cơ sở tự nguyện, có tổ chức cưới hỏi và có đăng ký kết hôn, được Ủy ban nhân dân phường Văn H, thành phố P, tỉnh Ninh Thuận cấp Giấy chứng nhận kết hôn số 139/2014 ngày 03-11-2014, đây là hôn nhân hợp pháp theo quy định tại Điều 8 và 9 Luật Hôn nhân và Gia đình.

Tại phiên tòa sơ thẩm, nguyên đơn bà U vẫn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện.

[2.2] Về quan hệ hôn nhân: Điều 19 Luật Hôn nhân và gia đình quy định: “1. Vợ chồng có nghĩa vụ thương yêu, chung thủy, tôn trọng, quan tâm, chăm sóc, giúp đỡ nhau; cùng nhau chia sẻ, thực hiện các công việc trong gia đình.

2. Vợ chồng có nghĩa vụ sống chung với nhau, trừ trường hợp vợ chồng có thỏa thuận khác hoặc do yêu cầu của nghề nghiệp, công tác, học tập, tham gia các hoạt động chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội và lý do chính đáng khác”.

Bà U và ông L quá trình chung sống có mâu thuẫn do ông L rượu chè, đánh đập vợ con. Từ đầu năm 2022 đến nay bà U và ông L đã mạnh ai nấy sống, không quan tâm, chăm sóc gì đến nhau và không còn chung sống một nhà. Tình trạng mâu thuẫn của bà U và ông L phù hợp với Đơn trình bày có xác nhận của Hội liên hiệp phụ nữ phường Văn H, thành phố P do nguyên đơn cung cấp.

Tại Biên bản lấy lời khai ngày 19-7-2022, ông L trình bày: “đồng ý ly hôn do đã hết tình cảm”, điều này thể hiện ông L không có thiện chí và không có nguyện vọng hàn gắn tình cảm vợ chồng. Vì vậy, căn cứ Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình xét thấy hôn nhân giữa bà U và ông L đã lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được nên Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu ly hôn của bà U.

[2.3] Về con chung: Vợ chồng bà có 02 con chung tên Lê Trọng T, sinh ngày 07-11-2013; Lê Thành B, sinh ngày 03-01-2018. Bà U có yêu cầu giao cho ông L trực tiếp nuôi 2 con, Hội đồng xét xử thấy rằng: Cả 2 cháu từ trước đến nay đều sống với ông L, cháu T có nguyện vọng được sống với ba và ông L đồng ý tiếp tục nuôi dưỡng 2 cháu nên Hội đồng xét xử giao 2 cháu T, B cho ông Lê Thành L trực tiếp nuôi dưỡng, bà Nguyễn Thị Phương U không có nghĩa vụ phải cấp dưỡng nuôi con do ông L không yêu cầu.

[3] Tài sản chung và nợ chung: Bà U và ông L không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không xét.

[4] Quan điểm của đại diện Viện kiểm sát thành phố Phan Rang - Tháp Chàm tại phiên tòa hôm nay là có căn cứ và đúng pháp luật, nên Hội đồng xét xử chấp nhận.

[5] Về án phí: Bà U phải chịu án phí dân sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ: khoản 1 Điều 28; khoản 1 Điều 35; khoản 1 Điều 39; khoản 4 Điều 147; Điều 227; Điều 228; Điều 271 và Điều 273 của Bộ Luật tố tụng dân sự;

Khoản 1 Điều 56; khoản 2 Điều 81; Điều 82 và Điều 83 của Luật Hôn nhân và Gia đình;

Điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên xử:

1. Về hôn nhân: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, bà Nguyễn Thị Phương U được ly hôn với ông Lê Thành L.

2. Về con chung: Giao cho ông Lê Thành L được quyền trực tiếp nuôi dưỡng 02 con chung tên Lê Trọng T, sinh ngày 07-11-2013; Lê Thành B, sinh ngày 03-01-2018. Bà Nguyễn Thị Phương U không có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con do ông Lê Thành L không yêu cầu.

Sau khi ly hôn, người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở. Cha, mẹ không trực tiếp nuôi con lạm dụng việc thăm nom để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trong nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con thì người trực tiếp nuôi con có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom con của người đó.

3. Về án phí: Bà Nguyễn Thị Phương U phải chịu 300.000 đồng (Ba trăm ngàn đồng) án phí dân sự sơ thẩm, nhưng được khấu trừ vào tiền tạm ứng án phí là 300.000đồng (Ba trăm ngàn đồng) đã nộp theo biên lai thu tiền số: 0003968 ngày 01-4-2022 của Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Phan Rang - Tháp Chàm, tỉnh Ninh Thuận. Bà Nguyễn Thị Phương U đã nộp đủ án phí dân sự sơ thẩm.

4. Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được Thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận Thi hành án, quyền yêu cầu Thi hành án, tự nguyện Thi hành án hoặc bị cưỡng chế Thi hành án theo quy định các Điều 6, 7, 7a và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu Thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Án xử công khai sơ thẩm vắng mặt nguyên đơn và bị đơn, quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày được tống đạt hợp lệ Bản án./

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

113
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con số 58/2022/HNGĐ-ST

Số hiệu:58/2022/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Phan Rang Tháp Chàm - Ninh Thuận
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 27/07/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;