TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN G – TỈNH B
BẢN ÁN 57/2024/HNGĐ-ST NGÀY 09/04/2024 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON
Ngày 09/4/2024 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện G xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 95/2024/TLST–HNGĐ ngày 29 tháng 02 năm 2024 về việc: “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con” theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 109/2024/QĐXXST-HNGĐ ngày 20/3/2024 giữa các đương sự:
1. Nguyên đơn: anh Nguyễn Minh T, sinh năm 1985; địa chỉ: ấp Hưng An A, xã T1, huyện G, tỉnh B (vắng có đơn).
2. Bị đơn: chị Hồ Thị Thuý N, sinh năm 1985; địa chỉ: ấp 6, xã S, huyện G, tỉnh B (vắng có đơn).
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo đơn khởi kiện ngày 30/01/2024 và trong quá trình tố tụng, nguyên đơn anh Nguyễn Minh T trình bày:
Anh và chị N tự nguyện tiến tới hôn nhân, có đăng ký kết hôn tại Uỷ ban nhân dân xã T1, huyện G, tỉnh B vào ngày 08/02/2010.
Sau khi kết hôn, vợ chồng sống hạnh phúc đến năm 2012 thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân là do bất đồng quan điểm sống, tính tình không hoà hợp. Vì hạnh phúc gia đình, vì tương lai của con cái, anh đã cố gắng chịu đựng và tìm cách giải quyết mâu thuẫn nhưng không có kết quả. Anh cũng đã nhiều lần khuyên chị N ra riêng ở nhưng chị N không đồng ý. Hiện tại hai bên đã sống ly thân khoảng 03 năm nay. Trong thời gian sống ly thân, cả hai đều không có thiện chí hàn gắn.
Nay, tình cảm hai bên không còn, mục đích hôn nhân không đạt được, không còn khả năng hàn gắn nên anh yêu cầu ly hôn với chị N. Con chung: Nguyễn Hồ T2 sinh ngày 06/5/2012 và Nguyễn Hồ T3 sinh ngày 24/4/2020 hiện ở với chị N. Khi ly hôn, anh đồng ý để chị N tiếp tục nuôi hai con, anh đồng ý cấp dưỡng nuôi hai con mỗi tháng là 5.000.000 đồng từ khi bản án, quyết định của Toà án có hiệu lực pháp luật cho đến khi hai con chung đủ 18 tuổi. Tài sản chung, nợ chung không có.
* Tại đơn xin giải quyết và xét xử vắng mặt ngày 13/3/2024, bị đơn chị Hồ Thị Thuý N trình bày:
Chị thống nhất với trình bày của anh T về thời gian kết hôn, nơi đăng ký kết hôn. Hôn nhân giữa hai bên là trên cơ sở tự nguyện. Nguyên nhân hai bên phát sinh mâu thuẫn là do anh T có mối quan hệ với người phụ nữ khác. Chị nhiều lần bắt gặp, khuyên ngăn nhưng anh T vẫn tái phạm. Chị và anh T sống ly thân từ ngày 01/9/2021 khi chị bắt gặp anh T ngoại tình.
Về hôn nhân, chị đồng ý ly hôn với anh T. Con chung: Nguyễn Hồ T2 sinh ngày 06/5/2012 và Nguyễn Hồ T3 sinh ngày 24/4/2020 hiện ở với chị. Khi ly hôn, chị yêu cầu trực tiếp nuôi dưỡng hai con, anh T cấp dưỡng nuôi con như ý kiến của anh T thể hiện trong đơn khởi kiện. Tài sản chung, nợ chung không có.
* Tại phiên tòa:
Anh Nguyễn Minh T, chị Hồ Thị Thuý N vắng nhưng có đơn yêu cầu xét xử vắng mặt.
Quan điểm của Viện kiểm sát:
- Về thủ tục: sau khi nhận đơn khởi kiện; các tài liệu, chứng cứ kèm theo và xem xét có đủ điều kiện thụ lý; Tòa án đã tiến hành thủ tục thủ lý vụ án theo đúng quy định so với Bộ Luật tố tụng dân sự và các văn bản quy phạm pháp luật có liên quan. Thẩm phán được phân công giải quyết vụ án đã thực hiện đúng và đầy đủ nhiệm vụ, quyền hạn của mình trong giai đoạn chuẩn bị xét xử. Các tài liệu, chứng cứ được thu thập đầy đủ làm cơ sở giải quyết đúng đắn vụ án. Thời hạn chuẩn bị xét xử đảm bảo theo quy định tại Điều 203 Bộ Luật tố tụng dân sự. Hội đồng xét xử, Thư ký đã tuân theo đúng, đầy đủ các quy định của Bộ Luật tố tụng dân sự và các văn bản quy phạm pháp luật có liên quan về việc xét xử sơ thẩm vụ án, không vi phạm về việc xét xử vụ án. Nguyên đơn anh T đã thực hiện đúng quy định tại các điều 70, 71 Bộ luật Tố tụng dân sự. Bị đơn chị N thực hiện đúng quy định tại các điều 70, 72 Bộ luật Tố tụng dân sự. Nguyên đơn, bị đơn có yêu cầu giải quyết, xét xử vắng mặt, căn cứ Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự vụ án vẫn được tiến hành xét xử đúng quy định pháp luật.
- Về nội dung: căn cứ các điều 56, 81, 82, 83, 84 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014, đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của anh Nguyễn Minh T:
+ Về hôn nhân: anh Nguyễn Minh T được ly hôn với chị Hồ Thị Thuý N.
+ Về con chung: giao cháu Nguyễn Hồ T2 sinh ngày 06/5/2012 và Nguyễn Hồ T3 sinh ngày 24/4/2020 cho chị N trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng đến lúc đủ 18 tuổi. Buộc anh T cấp dưỡng cho con 5.000.000 đồng/tháng/02 cháu.
Anh T có quyền, nghĩa vụ thăm nom con chung, không ai được cản trở. Trong trường hợp có yêu cầu của một, cả hai bên hoặc của cá nhân, cơ quan tổ chức quy định tại khoản 5 Điều 84 của Luật hôn nhân và gia đình, Tòa án có thể quyết định việc thay đổi người trực tiếp nuôi con.
+ Về tài sản chung, nợ chung: anh T, chị N trình bày không có nên không xem xét.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Qua nghiên cứu toàn bộ các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và thẩm tra công khai các chứng cứ tại phiên tòa, Hội đồng xét xử xét thấy:
Về thủ tục: tại phiên toà, nguyên đơn anh Nguyễn Minh T, bị đơn chị Hồ Thị Thuý N vắng nhưng có đơn yêu cầu xét xử vắng mặt. Do đó, việc đưa vụ án ra xét xử là phù hợp với quy định tại các điều 227, 228 Bộ luật tố tụng dân sự.
Về nội dung:
[1] Về hôn nhân: anh Nguyễn Minh T và chị Hồ Thị Thuý N kết hôn trên cơ sở tự nguyện, có đăng ký kết hôn theo quy định pháp luật tại Uỷ ban nhân dân xã T1, huyện G, tỉnh B vào ngày 08/02/2010 nên quan hệ hôn nhân là hợp pháp. Trong quá trình tố tụng, anh T cho rằng trong thời gian chung sống, do bất đồng quan điểm nên hai bên phát sinh mâu thuẫn và ly thân từ năm 2021 cho đến nay. Trong thời gian ly thân, cả hai đều không có thiện chí hàn gắn. Hiện hai bên không còn tình cảm, không có khả năng hàn gắn nên anh yêu cầu ly hôn, yêu cầu xét xử vắng mặt. Chị N cũng thừa nhận hai bên phát sinh nhiều mâu thuẫn, anh T ngoại tình, hai bên đã sống ly thân từ ngày 01/9/2021 cho đến nay và đồng ý lý hôn với anh T. Từ đó có cơ sở xác định tình trạng mâu thuẫn giữa hai bên đã trầm trọng, mục đích của hôn nhân không đạt được, đời sống chung không thể kéo dài và không còn khả năng hàn gắn. Do đó, xét yêu cầu ly hôn của anh T là có căn cứ, phù hợp với quy định pháp luật tại các điều 51, 56 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 nên được Hội đồng xét xử chấp nhận.
[2] Về con chung: Nguyễn Hồ T2 sinh ngày 06/5/2012 và Nguyễn Hồ T3 sinh ngày 24/4/2020. Hội đồng xét xử xét thấy, từ khi anh T và chị N sống ly thân cho đến nay, hai con chung ở với chị N; cuộc sống của hai cháu đã ổn định. Tại biên bản lấy ý kiến ngày 13/3/2024, cháu Thiện có nguyện vọng ở với mẹ. Bên cạnh đó, anh T cũng đồng ý giao hai con chung cho chị N trực tiếp nuôi dưỡng. Do đó xét yêu cầu của chị N yêu cầu trực tiếp nuôi dưỡng hai con chung là có cơ sở, phù hợp với quy định pháp luật tại Điều 81 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 nên được chấp nhận. Về cấp dưỡng, anh T có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chung mỗi cháu mỗi tháng số tiền là 2.500.000 đồng cho đến khi con chung đủ 18 tuổi.
[3] Về tài sản chung, nợ chung: anh T, chị N khai không có, không yêu cầu giải quyết nên không xem xét.
[4] Xét đề nghị của Viện kiểm sát phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên được chấp nhận.
[5] Về án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm: anh T phải nộp số tiền là 600.000 đồng theo Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Áp dụng các điều 227, 228 Bộ luật tố tụng dân sự; các điều 51, 56, 81, 82, 83, 84 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH 14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
1/- Chấp nhận yêu cầu của anh Nguyễn Minh T được ly hôn với chị Hồ Thị Thuý N.
2/- Con chung: Nguyễn Hồ T2 sinh ngày 06/5/2012 và Nguyễn Hồ T3 sinh ngày 24/4/2020.
Giao Nguyễn Hồ T2 sinh ngày 06/5/2012 và Nguyễn Hồ T3 sinh ngày 24/4/2020 cho chị N trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục cho đến khi đủ 18 tuổi.
Về cấp dưỡng, anh Nguyễn Minh T có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chung mỗi cháu mỗi tháng số tiền là 2.500.000đ (hai triệu năm trăm nghìn đồng) cho đến khi con chung đủ 18 tuổi. Thời gian thực hiện việc cấp dưỡng tính từ ngày 09/4/2024.
Anh T có quyền, nghĩa vụ thăm nom con chung, không ai được cản trở.
Cha, mẹ không trực tiếp nuôi con lạm dụng việc thăm nom để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con thì người trực tiếp nuôi con có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom con của người đó. Cha, mẹ trực tiếp nuôi con có quyền yêu cầu người không trực tiếp nuôi con cùng các thành viên gia đình tôn trọng quyền được nuôi con của mình.
Trong trường hợp có yêu cầu của cha, mẹ hoặc cá nhân, tổ chức được quy định tại khoản 5 Điều 84 của Luật hôn nhân và gia đình, Tòa án có thể quyết định việc thay đổi người trực tiếp nuôi con.
3/- Tài sản chung, nợ chung: anh T, chị N khai không có, không yêu cầu giải quyết nên không xem xét.
4/- Án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm: buộc anh Nguyễn Minh T phải nộp số tiền là 600.000đ (sáu trăm nghìn đồng) và được khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp 300.000đ (ba trăm nghìn đồng) theo biên lai thu số 0002910 ngày 27/02/2024 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện G. Do đó, anh T còn phải nộp thêm số tiền là 300.000đ (ba trăm nghìn đồng).
Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7, 7a, 7b và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.
Các đương sự có quyền làm đơn kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, đương sự vắng mặt tại phiên tòa hoặc không có mặt khi tuyên án mà có lý do chính đáng thì thời hạn kháng cáo tính từ ngày nhận được bản án hoặc được tống đạt hợp lệ.
Bản án 57/2024/HNGĐ-ST về ly hôn, tranh chấp nuôi con
Số hiệu: | 57/2024/HNGĐ-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Pác Nặm - Bắc Kạn |
Lĩnh vực: | Hôn Nhân Gia Đình |
Ngày ban hành: | 09/04/2024 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về