Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con số 50/2022/HNGĐ-ST (chồng đi tù, tỉnh cảm vợ chồng lạnh nhạt)

TÒA ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ N, TỈNH KHÁNH HÒA

BẢN ÁN 50/2022/HNGĐ-ST NGÀY 17/05/2022 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON

Ngày 17 tháng 5 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân thị xã N xét xử sơ thẩm công khai vụ án hôn nhân và gia đình thụ lý số 02/2022/TLST-HNGĐ ngày 05 tháng 01 năm 2022 về việc “Ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 44/2022/QĐXXST-HNGĐ ngày 12 tháng 4 năm 2022, Thông báo dời ngày xét xử vụ án hôn nhân và gia đình sơ thẩm số 507/2022/HNGĐST-TB ngày 28 tháng 4 năm 2022 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Bà Tôn Nữ Thị Ái D – Sinh năm 1999 Nơi cư trú: Thôn P, xã Ninh I, thị xã N, tỉnh Khánh Hòa.

Có mặt tại phiên tòa.

- Bị đơn: Ông Đặng Toàn Hữu Th – Sinh năm 1995 Nơi cư trú: Thôn X, xã Ninh P, thị xã N, tỉnh Khánh Hòa. Vắng mặt tại phiên tòa và có đơn xin vắng.

NỘI DUNG VỤ ÁN

* Tại đơn khởi kiện, bản tự khai, biên bản về kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ, biên bản hòa giải và tại phiên tòa - nguyên đơn bà Tôn Nữ Thị Ái D trình bày:

Bà và ông Đặng Toàn Hữu Th tự nguyện chung sống với nhau vào năm 2016 nhưng đến năm 2018 mới đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã Ninh I. Quá trình chung sống hạnh phúc thời gian đầu về sau xảy ra bất đồng quan điểm sống nên vợ chồng hay kình cãi nhau và mâu thuẫn trầm trọng nhất vào đầu năm 2018. Đến cuối năm 2018 ông Th đi chấp hành án tại Trại giam A2 thì tình cảm vợ chồng ngày càng lạnh nhạt. Nay bà không còn tình cảm nên yêu cầu ly hôn với ông Đặng Toàn Hữu Th.

Về con chung: Bà và ông Th có một con chung tên Đặng Đức T1, sinh ngày 09/12/2017. Ly hôn bà yêu cầu nuôi con chung và không yêu cầu cấp dưỡng.

Về tài sản chung: Không yêu cầu Tòa án giải quyết.

* Theo biên bản lấy lời khai ngày 02/03/2022 và đơn đề nghị hòa giải xét xử vắng mặt - bị đơn ông Đặng Toàn Hữu Th trình bày:

Ông và bà Tôn Nữ Thị Ái D tự nguyện chung sống với nhau từ tháng 9/2016 đến tháng 01/2018 mới đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã Ninh I. Quá trình chung sống có kình cãi do bất đồng quan điểm sống. Nay ông đồng ý ly hôn theo yêu cầu bà D vì không còn tình cảm.

Về con chung: Ông và bà D có một con chung tên Đặng Đức T1, sinh ngày 09/12/2017. Ông đồng ý giao con chung cho bà D nuôi và không cấp dưỡng nuôi con chung.

Về tài sản chung: Không yêu cầu Tòa án giải quyết.

* Tại phiên tòa, vị đại diện Viện Kiểm sát nhân dân thị xã N trình bày quan điểm:

Về việc tuân theo pháp luật trong quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa là đúng với quy định của Bộ luật tố tụng dân sự. Về nội dung vụ án: nguyên đơn yêu cầu ly hôn là có cơ sở vì tình cảm không còn, đời sống vợ chồng không thể tiếp tục, mục đI hôn nhân không đạt được nên đề nghị chấp nhận yêu cầu ly hôn của nguyên đơn là phù hợp với quy định tại Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình. Về con chung: bà D và ông Th có một con chung tên Đặng Đức T1, sinh ngày 09/12/2017. Bà D yêu cầu nuôi con chung và không yêu cầu cấp dưỡng nuôi con chung. Ông Th đồng ý yêu cầu về con chung. Xét cháu Th còn nhỏ và hiện nay bà D đang nuôi con chung nên để đảm bảo quyền lợi cho cháu cần căn cứ vào các Điều 58, 81, 82, 83 và 84 Luật hôn nhân và gia đình chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn giao con chung tên Đặng Đức T1, sinh ngày 09/12/2017 cho bà D trực tiếp nuôi dưỡng. Về cấp dưỡng nuôi con chung, bà D không yêu cầu nên không xem xét. Về tài sản chung: không yêu cầu giải quyết nên không xem xét. Về án phí: bà D nộp án phí theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa, căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về thủ tục tố tụng: Tòa án đã tống đạt thông báo về phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải; quyết định đưa vụ án ra xét xử, thông báo dời ngày xét xử cho bị đơn và ông Đặng Toàn Hữu Th có đơn đề nghị hòa giải và xét xử vắng mặt. Vì vậy, Hội đồng xét xử căn cứ Điều 227 Bộ luật tố tụng dân sự tiến hành xét xử vụ án theo quy định.

[2] Về thẩm quyền giải quyết:

Ông Đặng Toàn Hữu Th có hộ khẩu thường trú tại thôn X, xã Ninh P, thị xã N, tỉnh Khánh Hòa. Do đó Tòa án nhân dân thị xã Ninh Hòa, tỉnh Khánh Hòa có thẩm quyền giải quyết theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự.

[3] Về quan hệ tranh chấp: Bà Tôn Nữ Thị Ái D yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn và nuôi con chung với ông Đặng Toàn Hữu Th nên Hội đồng xét xử xác định đây là tranh chấp về việc “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con” thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án theo quy định tại khoản 1 Điều 28 Bộ luật tố tụng dân sự.

[4] Về nội dung vụ án:

[4.1] Về quan hệ hôn nhân: Bà Tôn Nữ Thị Ái D và ông Đặng Toàn Hữu Th tự nguyện chung sống, kết hôn và được Ủy ban nhân dân xã Ninh I, thị xã N, tỉnh Khánh Hòa cấp giấy chứng nhận kết hôn số 06, cấp ngày 22 tháng 01 năm 2018. Vì vậy, quan hệ hôn nhân giữa bà Tôn Nữ Thị Ái D và ông Đặng Toàn Hữu Th là hợp pháp.

Theo lời trình bày của nguyên đơn thì vợ chồng có khoảng thời gian chung sống hòa thuận hạnh phúc đến đầu năm 2018 phát sinh mâu thuẫn trầm trọng. Nguyên nhân phát sinh mâu thuẫn là do bất đồng quan điểm dẫn đến vợ chồng hay kình cãi nhau làm cho tình cảm vợ chồng rạn nứt, không còn quan tâm, thương yêu nhau nữa. Cuối năm 2018 ông Th đi chấp hành án tại Trại giam A2 nên tình cảm vợ chồng ngày càng lạnh nhạt. Tại biên bản lấy lời khai ngày 02/3/2022 (bút lục 29) ông Th cũng thừa nhận vợ chồng có kình cãi do bất đồng quan điểm sống và đồng ý ly hôn theo yêu cầu bà D vì không còn tình cảm.

Xét thấy cuộc sống vợ chồng phải có nghĩa vụ thương yêu, tôn trọng, quan tâm, chăm sóc giúp đỡ nhau nhưng cuộc sống chung giữa bà D và ông Th không hạnh phúc, tình trạng hôn nhân lâm vào trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đI hôn nhân không đạt được nên Hội đồng xét xử xét thấy cần chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của bà Tôn Nữ Thị Ái D là có căn cứ và phù hợp Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình.

[4.2] Về con chung:

Bà D và ông Th có một con chung tên Đặng Đức T1, sinh ngày 09/12/2017. Bà D trình bày hiện nay con chung đang được bà trực tiếp nuôi dưỡng nên yêu cầu được nuôi con chung và không yêu cầu ông Th cấp dưỡng nuôi con. Xét thấy cháu T1 còn nhỏ đang được bà D trực tiếp nuôi dưỡng và ý kiến của ông Th tại hồ sơ vụ án bút lục 29 đồng ý giao con chung cho bà D nuôi dưỡng và không cấp dưỡng nuôi con chung.

Do đó, Hội đồng xét xử xét thấy: việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục sau khi ly hôn là quyền, nghĩa vụ của cha mẹ và để đảm bảo cho cháu có đủ điều kiện phát triển lành mạnh về thể chất, trí tuệ, đạo đức trở thành người con hiếu thảo của gia đình, công dân có ích cho xã hội nên cần căn cứ vào các Điều 58, 81, 82, 83, 84 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 giao con chung tên Đặng Đức T1, sinh ngày 09/12/2017 cho bà D trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục là phù hợp.

Sau khi ly hôn, ông Th có quyền, nghĩa vụ thăm nom con chung, không ai được cản trở. Vì quyền lợi của con chung, khi cần thiết, các bên đương sự có quyền yêu cầu thay đổi người trực tiếp nuôi con hoặc mức cấp dưỡng nuôi con theo quy định của pháp luật.

Về cấp dưỡng nuôi con chung: Bà D không yêu cầu nên không xem xét.

[4.3] Về tài sản chung: Các đương sự không yêu cầu giải quyết nên không xem xét.

[5] Ý kiến của vị đại diện Viện kiểm sát nhân dân thị xã N về việc tuân theo pháp luật trong quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa là đúng với quy định của Bộ luật tố tụng dân sự. Về nội dung vụ án, vị đại diện Viện kiểm sát có quan điểm cho rằng yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn về việc ly hôn và nuôi con chung là có cơ sở chấp nhận và đề nghị Tòa án chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn. Quan điểm nói trên của đại diện Viện kiểm sát về đường lối giải quyết vụ án phù hợp với nhận định trên của Tòa án nên chấp nhận.

[6] Về án phí: Bà Tôn Nữ Thị Ái D phải nộp án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm theo quy định của pháp luật tại Điều 147 Bộ luật tố tụng dân sự và Nghị quyết án phí, lệ phí Tòa án số 326/2016/UBTVQH ngày 30/12/2016.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, Điều 147, Điều 227, Điều 264, Điều 271, Điều 273 Bộ luật tố tụng dân sự;

Căn cứ vào Điều 56, 58, 81, 82, 83 và Điều 84 Luật Hôn nhân và gia đình; Căn cứ điểm a khoản 5 Điều 27 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;

1. Về quan hệ hôn nhân: Chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn: Bà Tôn Nữ Thị Ái D được ly hôn với ông Đặng Toàn Hữu Th.

2. Về con chung: Giao con chung tên Đặng Đức T1, sinh ngày 09/12/2017 cho bà Tôn Nữ Thị Ái D trực tiếp trông nom, chăm sóc, giáo dục và nuôi dưỡng. Bà D không yêu cầu ông Th cấp dưỡng nuôi con chung. Ông Th có quyền, nghĩa vụ thăm nom con chung không ai được cản trở.

Vì quyền lợi của con chung, khi cần thiết, các bên đương sự có quyền yêu cầu thay đổi người trực tiếp nuôi con hoặc mức cấp dưỡng nuôi con chung theo quy định của pháp luật.

3. Về tài sản chung: Bà Tôn Nữ Thị Ái D và ông Đặng Toàn Hữu Th không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét.

4. Về án phí: Bà Tôn Nữ Thị Ái D phải nộp 300.000đ án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp theo biên lai thu tiền số AA/2021/0004399 ngày 05/01/2022 của Chi cục thi hành án dân sự thị xã N.

Bà D đã nộp đủ án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm.

5. Về quyền kháng cáo: Nguyên đơn có quyền làm đơn kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, bị đơn vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

Bản án này được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

30
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con số 50/2022/HNGĐ-ST (chồng đi tù, tỉnh cảm vợ chồng lạnh nhạt)

Số hiệu:50/2022/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thị xã Ninh Hòa - Khánh Hoà
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 17/05/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;