Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con số 49/2022/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN HỒNG NGỰ, TỈNH ĐỒNG THÁP

BẢN ÁN 49/2022/HNGĐ-ST NGÀY 16/08/2022 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON

Ngày 16 tháng 8 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Hồng Ngự, tỉnh Đồng Tháp xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 57/2022/TLST-HNGĐ ngày 27 tháng 4 năm 2022, về tranh chấp ly hôn, tranh chấp về nuôi con theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 99/2022/QĐXX-ST ngày 14 tháng 7 năm 2022 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Anh Nguyễn Văn Nh, sinh năm 1987; Nơi cư trú: Ấp BHH, xã TL, huyện HN, tỉnh Đồng Tháp.

2. Bị đơn: Chị Nguyễn Thị G, sinh năm 1986; Nơi cư trú: Ấp BHH, xã TL, huyện HN, tỉnh Đồng Tháp.

(Nguyên đơn có đơn xin vắng mặt, bị đơn vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại đơn khởi kiện đề ngày 22 tháng 3 năm 2022, anh Nguyễn Văn Nh trình bày: Anh và chị Nguyễn Thị G cưới nhau năm 2013, có đăng ký kết hôn. Thời gian đầu cuộc sống của vợ chồng hạnh phúc có 01 con chung nhưng đến đầu năm 2014 phát sinh mâu thuẫn trong gia đình, thường xuyên cải nhau nguyên nhân do bất đồng quan điểm, từ đó anh và chị G không còn sống chung cho tới nay. Nay anh yêu cầu được ly hôn với chị Nguyễn Thị G. Về con chung là cháu Nguyễn Thị Khánh V, sinh ngày 25 tháng 10 năm 2013, nay ly hôn anh đồng ý để chị G tiếp tục nuôi con chung và anh không cấp dưỡng. Về chia tài sản chung: Không có, nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Đối với chị Nguyễn Thị G, Toà án đã triệu tập để hòa giải và xét xử theo quy định của Bộ luật Tố tụng Dân sự nhưng chị từ chối không đến Tòa án tham gia phiên hòa giải và xét xử.

Tại phiên tòa hôm nay, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Hồng Ngự phát biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật trong quá trình giải quyết vụ án của Thẩm phán, Hội đồng xét xử và những người tham gia tố tụng đã chấp hành đúng quy định của Bộ luật tố tụng dân sự, đồng thời đề nghị Hội đồng xét xử: Về hôn nhân: chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn anh Nguyễn Văn Nh được ly hôn với chị Nguyễn Thị G; về con chung: Giao cháu Nguyễn Thị Khánh V, sinh ngày 25 tháng 10 năm 2013 cho chị Nguyễn Thị G nuôi dưỡng, anh Nguyễn Văn Nh không phải cấp dưỡng nuôi con do chị G chưa có văn bản yêu cầu; Về tài sản chung và nợ chung: Anh Nh trình bày không có, còn chị G chưa có ý kiến, nên không đề cập giải quyết.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Đây là vụ kiện tranh chấp về ly hôn thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án theo quy định tại khoản 1 Điều 28 Bộ luật Tố tụng Dân sự và Điều 53 Luật Hôn nhân và Gia đình.

[2] Nguyên đơn anh Nguyễn Văn Nh có đơn đề nghị xét xử vắng mặt, bị đơn chị Nguyễn Thị G đã được triệu tập hợp lệ nhưng vắng mặt, căn cứ khoản 2 Điều 227 và khoản 1 Điều 228 Bộ luật Tố tụng Dân sự, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vụ án vắng mặt nguyên đơn, bị đơn.

[3] Về quan hệ hôn nhân: Hôn nhân giữa anh Nguyễn Văn Nh và chị Nguyễn Thị G là hôn nhân hợp pháp, có đăng ký kết hôn và hoàn toàn tự nguyện, phù hợp với quy định tại Điều 9 Luật Hôn nhân và Gia đình. Xét yêu cầu ly hôn của anh Nguyễn Văn Nh đối với chị Nguyễn Thị G, Hội đồng xét xử xét thấy: Theo trình bày của anh Nh thì cuộc sống vợ chồng của anh chị không còn hạnh phúc từ năm 2014, mâu thuẫn trong gia đình kéo dài, vợ chồng thường xuyên cải nhau, nên vợ chồng đã không còn sống chung. Từ đó, có thể nhận thấy rằng mối quan hệ vợ chồng của anh Nh đối với chị G hoàn toàn không còn, hôn nhân lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được. Như vậy, xét thấy yêu cầu ly hôn của anh Nh là có căn cứ theo quy định tại khoản 1 Điều 56 Luật Hôn nhân và Gia đình: “Khi vợ hoặc chồng yêu cầu ly hôn mà hòa giải tại Tòa án không thành thì Tòa án giải quyết cho ly hôn nếu có căn cứ về việc vợ, chồng có hành vi bạo lực gia đình hoặc vi phạm nghiêm trọng quyền, nghĩa vụ của vợ, chồng làm cho hôn nhân lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được” và cũng phù hợp với đề nghị của vị đại diện Viện kiểm sát, nên chấp nhận cho anh Nh ly hôn với chị G.

[4] Về việc nuôi con: Anh Nguyễn Văn Nh thống nhất giao con chung Nguyễn Thị Khánh V, sinh ngày 25 tháng 10 năm 2013 cho chị Nguyễn Thị G tiếp tục nuôi dưỡng và anh không cấp dưỡng nuôi con, Hội đồng xét xử xét thấy, cháu Khánh V từ khi anh Nh và chị G không còn sống chung và hiện nay đều do chị G chăm sóc, nuôi dưỡng và để ổn định việc sinh hoạt của cháu, nên Hội đồng xét xử chấp nhận cho chị G được tiếp tục chăm sóc, nuôi dưỡng con chung, anh Nh không phải cấp dưỡng nuôi con do chị G chưa có yêu cầu, nếu khi nào chị G có yêu cầu về cấp dưỡng thì chị được quyền khởi kiện bằng một vụ án dân sự khác.

[5] Về chia tài sản chung: Anh Nguyễn Văn Nh cho rằng không có, nên không yêu cầu Tòa án giải quyết, còn chị Nguyễn Thị G không gửi văn bản ghi ý kiến của mình để Tòa án xem xét, nên Hội đồng xét xử không đề cập đến.

[6] Về án phí sơ thẩm: Căn cứ khoản 4 Điều 147 Bộ luật Tố tụng Dân sự, điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQHI4 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án để buộc đương sự phải chịu tiền án phí sơ thẩm theo quy định.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 1 Điều 28, khoản 4 Điều 147, khoản 2 Điều 227, khoản 1 Điều 228 của Bộ luật Tố tụng Dân sự; Điều 53, khoản 1 Điều 56, các Điều 81, 82, 83 của Luật Hôn nhân và Gia đình; điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên xử:

1. Về quan hệ hôn nhân: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của anh Nguyễn Văn Nh, cho ly hôn giữa anh Nguyễn Văn Nh và chị Nguyễn Thị G.

2. Về việc nuôi con chung:

2.1. Chị Nguyễn Thị G được chăm sóc giáo dục, nuôi dưỡng con chung Nguyễn Thị Khánh V, sinh ngày 25 tháng 10 năm 2013.

2.2. Anh Nguyễn Văn Nh không phải cấp dưỡng nuôi con.

2.3. Sau khi ly hôn, người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở.

Cha, mẹ không trực tiếp nuôi con lạm dụng việc thăm nom để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con thì người trực tiếp nuôi con có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom con của người đó.

3. Về án phí sơ thẩm: Anh Nguyễn Văn Nh chịu 300.000 đồng (ba trăm nghìn đồng) án phí nhưng được trừ vào tiền tạm ứng án phí mà anh đã nộp là 300.000 đồng theo biên lai thu số 0003887 ngày 27 tháng 4 năm 2022 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Hồng Ngự.

4. Về quyền kháng cáo: Nguyên đơn và bị đơn vắng mặt được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc được tống đạt hợp lệ.

5. Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

127
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con số 49/2022/HNGĐ-ST

Số hiệu:49/2022/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Hồng Ngự - Đồng Tháp
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 16/08/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;