Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con số 48/2020/HNGĐ-ST

TÒA ÁN N DÂN HUYỆN H, TỈNH ĐỒNG THÁP

BẢN ÁN 48/2020/HNGĐ-ST NGÀY 30/09/2020 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON

Ngày 30 tháng 9 năm 2020 tại trụ sở Tòa án N dân huyện H, tỉnh Đồng Tháp xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 194/2020/TLST-HNGĐ ngày 02 tháng 7 năm 2020, về ly hôn, tranh chấp về nuôi con theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 121/2020/QĐXXST-HNGĐ ngày 26 tháng 8 năm 2020 và Quyết định hoãn phiên tòa số: 80/2020/QĐST-HNGĐ ngày 11/9/2020, giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Anh Lê Hồng N, sinh năm 1977. Địa chỉ: ấp B, xã L, huyên H, tỉnh Đồng Tháp.

Bị đơn: Chị Trần Thị Chúc L, sinh năm 1977. Địa chỉ: ấp B, xã L, huyên H, tỉnh Đồng Tháp.

(Anh N có mặt tại phiên tòa, chị L vắng măt tại phiên tòa lần thứ hai).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện ngày 29/6/2020, bản tự khai, trong quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa, nguyên đơn anh Lê Hồng N trình bày: Anh và chị Trần Thị Chúc L kết hôn năm 2005, hôn N có tìm hiểu trước, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban N dân xã L, huyên H, tỉnh Đồng Tháp. Thời gian đầu cuộc sống vợ chồng hạnh phúc, hòa thuận không có mâu thuẫn. Năm 2016 anh chị có mâu thuẫn, tranh cải thường xuyên do bất đồng ý kiến, chị L không lo cho gia đình mà chỉ lo cờ bạc, anh nhiều lần khuyên nhưng không được nên mâu thuẫn vợ chồng ngày càng trầm trọng. Tháng 3 năm 2020 thì chị L tự ý bỏ về nhà cha mẹ ruột sinh sống cho đến nay. Nay anh yêu cầu ly hôn với chị Trần Thị Chúc L, vì tình cảm không còn. Về con chung: Có 01 con chung tên Lê Thị Kim H, sinh ngày 05/02/2008, anh N yêu cầu được nuôi dưỡng con chung, không yêu cầu cấp dưỡng. Về tài sản chung: Tự thỏa thuận, không yêu cầu Tòa án giải quyết; Về nợ chung: Không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Trong biên bản lấy lời khai của đương sự, bị đơn Trần Thị Chúc L trình bày: Chị và anh N tự tìm hiểu và chung sống với nhau, không nhớ thời gian, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban N dân xã L, huyên H, tỉnh Đồng Tháp. Thời gian đầu cuộc sống vợ chồng hạnh phúc, hòa thuận không có mâu thuẫn. Đến khoảng tháng 3 năm 2020 thì chị có nghi ngờ anh N có quan hệ bất chính với người phụ nữ khác nhưng chị không trực tiếp thấy anh N có quan hệ với người phụ nữ khác, nên chị buồn và bỏ về nhà cha mẹ chị sinh sống đến nay. Sau đó chị có về nhà sống lại với anh N nhưng anh N không đồng ý cho chị vào nhà. Trong thời gian sống chung với anh N thì chị có chơi cờ bạc, anh N biết nên có la chị để chị nghỉ chơi cờ bạc và chị nghỉ chơi. Ngoài ra anh N lừa gạt chị đi làm ăn như cân cá nhưng thật sự không có cân cá đến 4-5 giờ sáng mới về nhà và chị cũng tin tưởng anh N suốt khoảng một năm. Anh N có nói với mẹ chồng xin cưới vợ khác. Ngoài ra không có mâu thuẫn gì khác. Nay anh N yêu cầu ly hôn, chị không đồng ý ly hôn vì còn thương chồng con. Về con chung: Có 01 con chung tên Lê Thị Kim H, sinh ngày 05/02/2008, đang sống cùng anh N. Nếu Tòa án cho ly hôn thì tùy ý kiến của con sống với ai thì người đó nuôi dưỡng, người còn lại không phải cấp dưỡng. Về tài sản chung: Không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết. Về nợ chung: Không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Ý kiến của Đại diện Viện kiểm sát: Từ khi thụ lý đến khi xét xử vụ án Thẩm phán, Thư ký, Hội đồng xét xử và những người tham gia tố tụng đều chấp hành đúng quy định của pháp luật. Về nôi dung vụ án: Về hôn N: Đề nghị chấp nhận yêu cầu ly hôn của anh Lê Hồng N; Về con chung: Chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn. Về tài sản chung và nợ chung: Không yêu cầu Tòa án giải quyết nên không đề câp đến.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Về quan hệ pháp luật: Bị đơn Trần Thị Chúc L vắng măt tại phiên tòa lần thứ hai nên tiếp tục xét xử vụ án phù hợp với quy định tại khoản 1 Điều 227 của Bô luât tố tụng dân sự. Anh Lê Hồng N khởi kiện yêu cầu ly hôn với chị Trần Thị Chúc L và yêu cầu được nuôi dưỡng con chung, không yêu cầu cấp dưỡng. Đây là vụ án về ly hôn, tranh chấp về nuôi con quy định tại khoản 1 Điều 28 của Bộ luật tố tụng dân sự. Chị Trần Thị Chúc L cư trú tại ấp Long Thới B, xã L, huyên Hồng Ngự, tỉnh Đồng Tháp nên thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án N dân huyên Hồng Ngự quy định tại khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật tố tụng dân sự.

[2] Về nội dung vụ án:

2.1. Về hôn N: Anh Lê Hồng N và chị Trần Thị Chúc L kết hôn vào năm 2005, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban N dân xã L, huyện H, tỉnh Đồng Tháp phù hợp với quy định tại Điều 9 Luât Hôn nhân và gia đình năm 2014. Chị Trần Thị Chúc L đã được Tòa án thông báo hợp lệ nhưng không đến Tòa án để tham gia các phiên họp, phiên hòa giải, phiên tòa, chỉ có trình bày trong biên bản lấy lời khai của đương sự ngày 20 tháng 8 năm 2020 (Bút lục số 31) . Tòa án đã tiến hành hòa giải đoàn tụ cho các đương sự nhưng chị L không đến tham gia theo thông báo của Tòa án, điều này thể hiện chị L không còn tình cảm với anh N. Trong lời trình bày thì chị L có thừa nhận đã có nghi ngờ anh N quan hệ bất chính với người phụ nữ khác nhưng không trực tiếp thấy anh N quan hệ bất chính với người phụ nữ khác. Ngoài ra, Chị L có hành vi chơi cờ bạc và được địa phương xác nhận. Từ các phân tích trên đã có đủ căn cứ chứng minh hôn N giữa anh Lê Hồng N và chị Trần Thị Chúc L đã lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn N không đạt được nên chấp nhận yêu cầu ly hôn của anh Lê Hồng N là phù hợp.

2.2. Về con chung: Có 01 con chung tên Lê Thị Kim H, sinh ngày 05/02/2008, đang sống cùng anh N, anh N yêu cầu được nuôi dưỡng con chung, không yêu cầu cấp dưỡng, chị L thống nhất theo sự lựa chọn của con chung sống với ai thì người đó nuôi dưỡng, người còn lại không phải cấp dưỡng và con chung Lê Thị Kim H có ghi ý kiến muốn tiếp tục sống với anh N nên chấp nhận giao con chung tên Lê Thị Kim H, sinh ngày 05/02/2008 cho anh N được tiếp tục nuôi dưỡng là phù hợp. Về cấp dưỡng: Anh N đã được giải thích về nghĩa vụ cấp dưỡng nhưng anh N tự nguyện không yêu cầu cấp dưỡng nên không xem xét.

2.3. Về tài sản chung: Trong quá trình giải quyết vụ án, anh N và chị L đều không yêu cầu Tòa án giải quyết nên không đăt ra để xem xét.

2.4. Về nợ chung: Trong quá trình giải quyết vụ án, anh N và chị L đều không yêu cầu Tòa án giải quyết nên không đăt ra để xem xét.

[3] Ý kiến của Đại diện Viện kiểm sát: Phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên chấp nhận.

[4] Về án phí: Áp dụng khoản 4 Điều 147 của Bộ luật tố tụng dân sự, Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

4.1. Anh Lê Hồng N phải chịu án phí dân sự sơ thẩm 300.000 đồng, được trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp 300.000 đồng theo biên lai số BH/2018/0001330 ngày 02/7/2020 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện H. Anh Lê Hồng N không phải nôp thêm.

4.2. Chị Trần Thị Chúc L không phải chịu án phí dân sự sơ thẩm.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào các Điều 28, 35, 39, 147, 227, 244 của Bộ luật tố tụng dân sự; các Điều 9, 53, 81, 82, 83 của Luật hôn nhân và gia đình năm 2014, Điều 27 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên xử:

1. Về hôn N: Chấp nhận yêu cầu ly hôn của anh Lê Hồng N. Cho anh Lê Hồng N ly hôn với chị Trần Thị Chúc L.

2. Về con chung: Giao con chung tên Lê Thị Kim H, sinh ngày 05/02/2008 (Đang sống cùng anh N) cho anh Lê Hồng N được tiếp tục nuôi dưỡng. Chị Trần Thị Chúc L không phải cấp dưỡng nuôi con do anh N tự nguyện không yêu cầu. Sau khi ly hôn, người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở.

3. Về tài sản chung và nợ chung: Anh Lê Hồng N và chị Trần Thị Chúc L không yêu cầu Tòa án giải quyết, nên không giải quyết.

4. Về án phí:

4.1 Anh Lê Hồng N phải chịu án phí dân sự sơ thẩm 300.000 đồng, được trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp 300.000 đồng theo biên lai số BH/2018/0001330 ngày 02/7/2020 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện H. Anh Lê Hồng N không phải nôp thêm.

4.2 Chị Trần Thị Chúc L không phải chịu án phí dân sự sơ thẩm.

5. Về hướng dẫn thi hành án dân sự: Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

6. Về quyền kháng cáo: Các đương sự có quyền làm đơn kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, đương sự vắng mặt tại phiên tòa hoặc không có mặt khi tuyên án mà có lý do chính đáng thì thời hạn kháng cáo tính từ ngày nhận được bản án hoặc được tống đạt hợp lệ.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

145
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con số 48/2020/HNGĐ-ST

Số hiệu:48/2020/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Hồng Ngự - Đồng Tháp
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 30/09/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;