Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con số 47/2020/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN H, TỈNH ĐỒNG THÁP

BẢN ÁN 47/2020/HNGĐ-ST NGÀY 25/09/2020 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON

Trong ngày 25 tháng 9 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện H, tỉnh Đồng Tháp tiến hành mở phiên tòa xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số:

193/2020/TLST-HNGĐ ngày 02 tháng 7 năm 2020 về “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 114/2019/QĐXXST-HNGĐ ngày 20 tháng 8 năm 2020, và Quyết định hoãn phiên tòa số: 77/2020/QĐST- HNGĐ ngày 08 tháng 9 năm 2020, giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Chị Huỳnh Ngọc Th, sinh năm: 1988.

Địa chỉ cư trú: ấp B, xã A, huyện H, tỉnh Đồng Tháp. (Có mặt) 2. Bị đơn: Anh Nguyễn Văn H, sinh năm: 1984.

Địa chỉ cư trú: ấp B, xã A, huyện H, tỉnh Đồng Tháp. (Vắng mặt lần thứ 02)

NỘI DUNG VỤ ÁN

- Trong quá trình tố tụng vụ án thì Nguyên đơn chị Huỳnh Ngọc Th và Bị đơn anh Nguyễn Văn H trình bày như sau: Sau khi tìm hiểu thì chị Th và anh H thống nhất sống với nhau như vợ chồng tại nhà riêng gần nhà cha mẹ ruột của chị H ở ấp B, xã A, huyện H, tỉnh Đồng Tháp, nhưng đến năm 2007 mới đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã A, huyện H, tỉnh Đồng Tháp vào ngày 22/9/2007. Thời gian đầu vợ chồng chị Th, anh H sống hạnh phúc và có với nhau 02 người con chung tên Nguyễn Huỳnh H1, sinh ngày 09/11/2006; Nguyễn Nhất D, sinh ngày 11/01/2013, theo chị Th khai do cuộc sống gia đình khó khăn nên vợ chồng thường hay cải vã và đến đầu năm 2020 thì mâu thuẩn càng trầm trọng hơn, nên chị Th cùng 02 người con sang nhà cha mẹ ruột chị Th sống, anh H thì sống tại nhà chung và chị Th không còn sống chung với anh H kể từ đó đến nay.

Nay chị Th cho rằng tình cảm vợ chồng không còn, nên yêu cầu được ly hôn với anh H; Tại biên bản hòa giải ngày 17/7/2020, thì anh H cho rằng cuộc sống vợ chồng cũng có xảy ra mâu thuẩn, nhưng chưa đến mức trầm trọng, nên anh H không thống nhất ly hôn.

Về con chung: Tại biên bản hòa giải ngày 17/7/2020 chị Th và anh H thống nhất nếu cho ly hôn thì: Giao cho chị Th được nuôi dưỡng cả hai con chung là Nguyễn Huỳnh H1, sinh ngày 09/11/2006; Nguyễn Nhất D, sinh ngày 11/01/2013 (Theo nguyện vọng của hai con là muốn sống với mẹ và hiện đang sống với mẹ); Chị Th không yêu cầu cấp dưỡng và anh H cũng không tự nguyện về nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con, anh H vẫn có quyền thăm nom con.

Về tài sản chung và nợ chung: Chị Th, anh H đều không yêu cầu Tòa án giải quyết.

- Phát biểu của Kiểm sát viên tại phiên tòa:

Đối với việc tuân theo pháp luật tố tụng của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa và những người tham gia tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án kể từ khi thụ lý cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án đều đúng quy định của pháp luật.

Về việc giải quyết vụ án: Về hôn nhân: Đề nghị chấp nhận yêu cầu ly hôn của chị Huỳnh Ngọc Th. Về con chung: Giao cho chị Th được nuôi dưỡng cả hai con chung là Nguyễn Huỳnh H, sinh ngày 09/11/2006; Nguyễn Nhất D, sinh ngày 11/01/2013. Về cấp dưỡng: Chị Th không yêu cầu nên không xem xét. Về tài sản chung và nợ chung: Không yêu cầu Tòa án giải quyết nên không đề câp đến.

Không yêu cầu, kiến nghị để khắc phục vi phạm tố tụng ở giai đoạn sơ thẩm.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Căn cứ vào các chứng cứ và tài liệu đã được xem xét tại phiên tòa, ý kiến của Kiểm sát viên. Hội đồng xét xử nhận định:

[1]. Về tố tụng: Đây là vụ kiện ly hôn, tranh chấp về nuôi con, thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án theo qui định tại Điều 28 của Bộ luật tố tụng dân sự và bị đơn cư trú tại huyện H nên vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện H theo quy định tại các Điều 35, 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự. Đối với anh Nguyễn Văn H đã được Tòa án triệu tập xét xử lần thứ 02 mà vẫn vắng mặt không rõ lý do, nên căn cứ vào Điều 227 của Bộ luật Tố tụng dân sự xét xử vắng mặt bị đơn Nguyễn Văn H.

[2]. Về nội dung vụ án:

- Về hôn nhân: Trên cơ sở sự tự nguyện của chị Th và anh H sống với nhau như vợ chồng và có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã A, huyện H, tỉnh Đồng Tháp vào ngày 22 tháng 9 năm 2007 nên quan hệ hôn nhân của chị Th với anh H là hôn nhân hợp pháp được quy định tại Điều 9 Luật hôn nhân và gia đình. Trong quá trình chung sống chị Th, anh H thừa nhận thời gian đầu có H phúc và sinh được hai người con chung tên Nguyễn Huỳnh H1, sinh ngày 09/11/2006; Nguyễn Nhất D, sinh ngày 11/01/2013, sau đó tình cảm vợ chồng thường xảy ra mâu thuẫn, cuộc sống chung không hợp và bắt đầu không còn sống chung kể từ đầu năm 2020 đến nay. Nay chị Th khởi kiện xin được ly hôn với anh H, vì cho rằng tình cảm vợ chồng không còn; Anh H thì không đồng ý ly hôn, vì cho rằng còn thương yêu vợ, con và có xảy ra mâu thuẩn, nhưng chưa đến mức trầm trọng. Hội đồng xét xử, xét thấy: Trong quá trình giải quyết vụ án Tòa án đã có tổ chức hòa giải đoàn tụ nhưng không thành, chị Th kiên quyết ly hôn, anh H thì không có lý lẽ tích cực trong việc hàn gắn tình cảm vợ chồng, đều đó chứng tỏ chị Th đã không còn tình cảm vợ chồng với anh H, mà anh H lại không thiện chí trong việc kết nối lại tình cảm vợ chồng như theo lời nói của mình (Cụ thể nhà ở gần và trong quá trình giải quyết tại Tòa án đã triệu tập nhiều lần để tổ chức hòa giải đoàn tụ nhưng anh H đều vắng mặt, thậm chí tại các phiên tòa anh H cũng cố tình vắng mặt), điều này thể hiện anh H không có ý chí muốn đoàn tụ với chị Th nên việc chị Th xin ly hôn là có cơ sở. Từ đó thấy rằng mâu thuẫn giữa chị Th với anh H đã lâm vào tình trạng trầm trọng, mục đích hôn nhân không đạt được, cuộc sống chung không thể kéo dài, nên căn cứ vào Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình chấp nhận cho chị Th được ly hôn với anh H.

- Về con chung: Theo chị Th, anh H trình bày và theo các giấy khai sinh thể hiện thì chị Th, anh H có 02 con chung: Tên Nguyễn Huỳnh H1, sinh ngày 09/11/2006; Nguyễn Nhất D, sinh ngày 11/01/2013, hiện đang sống với chị Th và chị Th, anh H thống nhất giao cho chị Th được tiếp tục nuôi dưỡng (Cũng theo nguyện vọng của hai con là sống với mẹ sau khi cha mẹ ly hôn), anh H không phải cấp dưỡng nuôi con do chị Th chưa yêu cầu. Xét thấy việc thỏa thuận này của chị Th với anh H là tự nguyện và phù hợp với quy định của pháp luật, nên căn cứ vào Điều 81 Luật Hôn nhân và gia đình chấp nhận giao cho chị Th được tiếp tục trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục cả 02 con chung, anh H không phải cấp dưỡng nuôi con, do chị Th chưa yêu cầu.

- Về tài sản chung và nợ chung: Chị Th và anh H không yêu cầu Tòa án giải quyết, nên không xem xét giải quyết.

[3]. Về án phí sơ thẩm: Căn cứ vào Điều 147 Bộ luật tố tụng dân sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội, quy định về án phí, lệ phí. Thì chị Th là nguyên đơn phải chịu án phí sơ thẩm là 300.000 đồng, nhưng được trừ vào tiền tạm ứng án phí chị Th đã nộp là 300.000 đồng theo biên lai thu số: BH/2018/0001329 ngày 02/7/2020 của Chi cục thi hành án dân sự huyện H, tỉnh Đồng Tháp, vậy chị Th đã nộp đủ tiền án phí sơ thẩm, chị Th không phải nộp thêm; Anh H không phải nộp án phí sơ thẩm.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào các Điều 5, 28, 35, 39, 91, 147, 227 của Bộ luật Tố tụng dân sự; Các điều 9, 51, 56, 81, 82, 83 Luật hôn nhân và gia đình; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về án phí, lệ phí.

Tuyên xử:

1. Về hôn nhân: Chấp nhận yêu cầu ly hôn của chị Huỳnh Ngọc Th, cho chị Huỳnh Ngọc Th được ly hôn với anh Nguyễn Văn H.

2. Về quyền, nghĩa vụ nuôi con chung: Giao cho chị Huỳnh Ngọc Th được tiếp tục trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục 02 con chung là Nguyễn Huỳnh H1, sinh ngày 09/11/2006; Nguyễn Nhất D, sinh ngày 11/01/2013, hiện đang sống với chị Huỳnh Ngọc Th; Anh Nguyễn Văn H có quyền, nghĩa vụ thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chung mà không ai được quyền cản trở.

3. Về cấp dưỡng nuôi con chung: Anh Nguyễn Văn H chưa phải cấp dưỡng nuôi con, do chị Huỳnh Ngọc Th chưa yêu cầu.

4. Về tài sản chung và nợ chung: Chị Huỳnh Ngọc Th và anh Nguyễn Văn H không yêu cầu Tòa án giải quyết, nên không giải quyết.

5. Về án phí dân sự sơ thẩm:

- Chị Huỳnh Ngọc Th là nguyên đơn phải chịu án phí sơ thẩm là 300.000 đồng, nhưng được trừ vào tiền tạm ứng án phí sơ thẩm do chị Huỳnh Ngọc Th đã nộp là 300.000 đồng theo biên lai thu số: BH/2018/0001329 ngày 02/7/2020 của Chi cục thi hành án dân sự huyện H, tỉnh Đồng Tháp, vậy chị Huỳnh Ngọc Th đã nộp đủ tiền án phí sơ thẩm, chị Th không phải nộp thêm.

- Anh Nguyễn Văn H không phải chịu án phí sơ thẩm.

6. Quyền kháng cáo: Các đương sự có quyền làm đơn kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, đương sự vắng mặt tại phiên tòa hoặc không có mặt khi tuyên án mà có lý do chính đáng thì thời hạn kháng cáo tính từ ngày nhận được bản án hoặc được tống đạt hợp lệ.

7. Bản án này được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b và 9 Luật Thi hành án dân sự; Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

285
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con số 47/2020/HNGĐ-ST

Số hiệu:47/2020/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Hồng Ngự - Đồng Tháp
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 25/09/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;