Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con số 46/2021/HNGĐ-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN LỤC NGẠN, TỈNH BẮC GIANG

BẢN ÁN 46/2021/HNGĐ-ST NGÀY 20/08/2021 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON

Ngày 20 tháng 8 năm 2021 tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Lục Ngạn, tỉnh Bắc Giang xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 152/2021/TLST-HNGĐ ngày 29 tháng 4 năm 2021 về việc “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con”.

Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 53/2021/QĐST-HNGĐ ngày 02 tháng 8 năm 2021 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Anh Phạm Văn T, sinh năm 1988; trú tại thôn T, xã N, huyện L, tỉnh Bắc Giang. Vắng mặt, có đơn xin xét xử vắng mặt.

- Bị đơn: Chị Nguyễn Thị Tuyết M, sinh năm 1992; trú tại thôn T, xã N, huyện L, tỉnh Bắc Giang. Vắng mặt, có đơn xin xét xử vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện đề ngày 28/4/2021 và tại bản tự khai nguyên đơn anh Phạm Văn T trình bày:

Anh và chị Nguyễn Thị Tuyết M kết hôn trên cơ sở tự nguyện, trước khi kết hôn được tự do tìm hiểu và được hai bên gia đình tổ chức lễ cưới theo phong tục địa phương, có đăng ký kết hôn tại UBND xã N, huyện L, tỉnh Bắc Giang vào ngày 23/3/2017. Tuy nhiên, sau khi kết hôn được hai năm thì vợ chồng nảy sinh mâu thuẫn, vợ chồng không sống chung với nhau và ly thân từ đó đến nay. Nguyên nhân mâu thuẫn là do bất đồng quan điểm sống, vợ chồng không có tiếng nói chung về nhiều vấn đề trong cuộc sống. Hơn nữa vợ chồng không có sự hòa hợp, trong cuộc sống không bảo ban được nhau và thường xuyên xảy ra cãi vã. Trong thời gian ly thân vợ chồng không liên lạc, hỏi thăm gì nhau, không ai còn quan tâm đến ai nữa. Gia đình họ hàng hai bên cũng có hòa giải cho vợ chồng nhưng không thành. Nay anh thấy tình cảm vợ chồng không còn, mâu thuẫn vợ chồng đã trầm trọng nên yêu cầu Tòa án giải quyết cho anh ly hôn chị Nguyễn Thị Tuyết M.

Về con chung: Vợ chồng có 02 con chung là Phạm Bảo L, sinh ngày 04/3/2017 và Phạm Thị Bảo C, sinh ngày 10/8/2018. Hiện cháu Phạm Bảo L đang sống cùng anh, cháu Phạm Thị Bảo C đang sống cùng chị Nguyễn Thị Tuyết M; các con chung phát triển bình thường, không bị bệnh tật gì. Nay ly hôn, anh đề nghị Tòa án giao cháu Phạm Bảo L cho anh tiếp tục nuôi dưỡng, giao cháu Phạm Thị Bảo C cho chị M tiếp tục nuôi dưỡng. Việc cấp dưỡng nuôi con chung, anh không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Về tài sản chung, công nợ chung: Vợ chồng tự thỏa thuận, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Bị đơn chị Nguyễn Thị Tuyết M tại Bản tự khai ngày 27 tháng 7 năm 2021 trình bày:

Chị và anh Phạm Văn T kết hôn trên cơ sở tự nguyện, không bị ai ép buộc, trước khi kết hôn được tự do tìm hiểu và được hai bên gia đình tổ chức lễ cưới theo phong tục địa phương, có đăng ký kết hôn tại UBND xã N, huyện L, tỉnh Bắc Giang vào ngày 23/3/2017. Sau khi kết hôn, chị về nhà anh T làm dâu ngay và sống chung tại thôn T, xã N, huyện L, tỉnh Bắc Giang. Thời gian đầu vợ chồng chung sống hòa thuận, hạnh phúc tuy nhiên sau đó thì nảy sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn là do vợ chồng bất đồng quan điểm sống, không có tiếng nói chung, thường hay xảy ra cãi vã. Vợ chồng đã ly thân từ ngày 12/9/2020 đến nay, không ai quan tâm đến ai. Nay anh T làm đơn xin ly hôn chị, chị thấy vợ chồng không còn khả năng đoàn tụ nên chị cũng nhất trí ly hôn anh Phạm Văn T.

- Về con chung: Vợ chồng có 02 con chung là Phạm Bảo L, sinh ngày 04/3/2017 và Phạm Thị Bảo C, sinh ngày 10/8/2018. Nay ly hôn, chị đề nghị giao con chung là cháu Phạm Bảo L cho anh T nuôi dưỡng, giao con chung là Phạm Thị Bảo C cho chị tiếp tục nuôi dưỡng, chăm sóc. Chị không yêu cầu anh T phải cấp dưỡng tiền nuôi con hàng tháng.

- Về tài sản chung, công nợ chung: Vợ chồng tự thỏa thuận, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Tại phiên tòa anh Phạm Văn T và chị Nguyễn Thị Tuyết M đều vắng mặt và có đơn xin xét xử vắng mặt. Hội đồng xét xử công bố lời khai của anh Phạm Văn T và chị Nguyễn Thị Tuyết M tại phiên tòa.

Đại diện Viện kiểm sát phát biểu việc tuân theo pháp luật của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký tòa án và của các đương sự. Thẩm phán, Thư ký Tòa án đã thực hiện đúng trình tự thủ tục tố tụng, xác định đúng thẩm quyền, quan hệ pháp luật, thu thập chứng cứ theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự. Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa đã thực hiện đúng nguyên tắc, trình tự tố tụng dân sự. Các đương sự đã chấp hành đúng các quy định về quyền nghĩa vụ của mình quy định tại Điều 70, 71, 72 Bộ luật Tố tụng dân sự.

Phát biểu ý kiến về việc giải quyết vụ án, đại diện Viện kiểm sát đề nghị Hội đồng xét xử: Căn cứ Điều 28, Điều 35, Điều 39, Điều 147, khoản 1 Điều 227, Điều 228, Điều 238, Điều 271, Điều 273, Điều 280 Bộ luật Tố tụng dân sự; khoản 1 Điều 56, Điều 81, Điều 82, Điều 83 Luật Hôn nhân và gia đình; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí lệ phí Tòa án , tuyên xử:

- Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của anh Phạm Văn T: Cho anh Phạm Văn T được ly hôn với chị Nguyễn Thị Tuyết M.

- Về con chung: Giao con chung là Phạm Bảo L, sinh ngày 04/3/2017 cho anh Phạm Văn T trực tiếp nuôi dưỡng, giao con chung là Phạm Thị Bảo C, sinh ngày 10/8/2018 cho chị Nguyễn Thị Tuyết M trực tiếp nuôi dưỡng. Việc cấp dưỡng nuôi con chung không đặt ra xem xét, giải quyết.

- Về án phí: Anh Phạm Văn T phải chịu 300.000 đồng án phí dân sự sơ thẩm, nhưng được khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên toà; căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, ý kiến đề nghị của đại diện Viện kiểm sát, Hội đồng xét xử nhận định:

[1]. Về thủ tục tố tụng:

[1.1]. Về thẩm quyền giải quyết và quan hệ tranh chấp: Anh Phạm Văn T khởi kiện yêu cầu Toà án nhân dân huyện Lục Ngạn, tỉnh Bắc Giang giải quyết ly hôn với chị Nguyễn Thị Tuyết M hiện đang cư trú tại thôn T, xã N, huyện L, tỉnh Bắc Giang. Căn cứ quy định tại khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự, xác định đây là quan hệ tranh chấp hôn nhân và gia đình thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Lục Ngạn, tỉnh Bắc Giang.

[1.2]. Về sự vắng mặt của những người tham gia tố tụng: Trong quá trình giải quyết vụ án Tòa án đã tiến hành thông báo thụ lý vụ án theo quy định cho anh Phạm Văn T và chị Nguyễn Thị Tuyết M. Anh Phạm Văn T và chị Nguyễn Thị Tuyết M cũng đã có lời khai trình bày với Tòa án. Tại phiên tòa hôm nay anh Phạm Văn T và chị Nguyễn Thị Tuyết M đều có đơn xin xét xử vắng mặt. Căn cứ vào khoản 1 Điều 227, khoản 1 Điều 228, Điều 238 Bộ luật Tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt anh Phạm Văn T và chị Nguyễn Thị Tuyết M.

[2]. Xét yêu cầu xin ly hôn của nguyên đơn thì thấy:

[2.1]. Về quan hệ hôn nhân: Anh Phạm Văn T và chị Nguyễn Thị Tuyết M tự nguyện tìm hiểu, không bị ai ép buộc và có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã N, huyện L, tỉnh Bắc Giang, được cấp Giấy chứng nhận kết hôn ngày 23/3/2017. Do vậy xác định đây là hôn nhân hợp pháp.

Quá trình chung sống, anh Phạm Văn T và chị Nguyễn Thị Tuyết M có phát sinh mâu thuẫn, đã sống ly thân một thời gian, đến nay không ai còn quan tâm với ai. Anh Phạm Văn T và chị Nguyễn Thị Tuyết M đều xác định không còn tình cảm với nhau, anh T đề nghị giải quyết ly hôn chị M đồng ý. Điều đó chứng tỏ mâu thuẫn giữa anh Phạm Văn T và chị Nguyễn Thị Tuyết M đã đến mức trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Căn cứ vào khoản 1 Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình, Hội đồng xét xử xét thấy cần chấp nhận đơn khởi kiện ly hôn của anh Phạm Văn T, cho anh Phạm Văn T được ly hôn chị Nguyễn Thị Tuyết M.

[2.2]. Về con chung: Anh Phạm Văn T và chị Nguyễn Thị Tuyết M đều xác định vợ chồng có hai con chung là Phạm Bảo L, sinh ngày 04/3/2017 và Phạm Thị Bảo C, sinh ngày 10/8/2018. Nay ly hôn, anh Phạm Văn T và chị Nguyễn Thị Tuyết M cùng thỏa thuận giao con chung là cháu Phạm Bảo L cho anh T nuôi dưỡng, giao con chung là Phạm Thị Bảo C cho chị tiếp tục nuôi dưỡng. Hội đồng xét xử xét thấy hiện nay cháu Phạm Bảo L đang sống cùng anh Phạm Văn T, cháu Phạm Thị Bảo C đang sống cùng chị Nguyễn Thị Tuyết M; anh Phạm Văn T và chị Nguyễn Thị Tuyết M đều có chỗ ở, công việc ổn định, đủ điều kiện để nuôi dưỡng con chung phát triển đảm bảo. Do vậy, cần giao con chung là Phạm Bảo L cho anh Phạm Văn T tiếp tục nuôi dưỡng, giao con chung là Phạm Thị Bảo C cho chị Nguyễn Thị Tuyết M tiếp tục nuôi dưỡng là phù hợp với quy định pháp luật. Việc cấp dưỡng nuôi con chung do anh Phạm Văn T và chị Nguyễn Thị Tuyết M không yêu cầu nên không đặt ra xem xét, giải quyết.

[2.3]. Về tài sản chung, công nợ chung: Anh Phạm Văn T và chị Nguyễn Thị Tuyết M không yêu cầu giải quyết về tài sản chung, công nợ chung, nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét giải quyết.

[3] Về án phí: Anh Phạm Văn T phải chịu án phí dân sự sơ thẩm theo quy định pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ các Điều 28, Điều 35, Điều 39, Điều 147, khoản 1 Điều 227, khoản 1 Điều 228, Điều 238, Điều 271, Điều 273, Điều 280 Bộ luật Tố tụng dân sự; khoản 1 Điều 56, Điều 81, Điều 82, Điều 83 Luật Hôn nhân và gia đình; Điều 6, Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí lệ phí Tòa án.

Xử:

1. Về quan hệ hôn nhân: Anh Phạm Văn T được ly hôn với chị Nguyễn Thị Tuyết M.

2. Về con chung: Giao con chung là Phạm Bảo L, sinh ngày 04/3/2017 cho anh Phạm Văn T trực tiếp nuôi dưỡng đến khi cháu Phạm Bảo L đủ 18 tuổi hoặc đến khi có sự thay đổi khác theo quy định pháp luật; giao con chung là Phạm Thị Bảo C, sinh ngày 10/8/2018 cho chị Nguyễn Thị Tuyết M trực tiếp nuôi dưỡng đến khi cháu Phạm Thị Bảo C đủ 18 tuổi hoặc đến khi có sự thay đổi khác theo quy định pháp luật. Việc cấp dưỡng nuôi con chung không đặt ra xem xét, giải quyết. Sau khi ly hôn, chị Nguyễn Thị Tuyết M và anh Phạm Văn T được quyền thăm nom con chung, không ai được cản trở.

3. Về án phí: Anh Phạm Văn T phải chịu 300.000 đồng án phí dân sự sơ thẩm. Nhưng được khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp 300.000 đồng theo Biên lai thu số: 0010286 ngày 28 tháng 4 năm 2021 tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Lục Ngạn, tỉnh Bắc Giang. Khoản tiền này chuyển thành án phí. Xác nhận anh Phạm Văn T đã nộp đủ án phí dân sự sơ thẩm.

4. Về quyền kháng cáo: Đương sự vắng mặt được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được tống đạt bản án hoặc kể từ ngày bản án được niêm yết công khai theo quy định của pháp luật.

Án xử công khai sơ thẩm./. 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

166
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con số 46/2021/HNGĐ-ST

Số hiệu:46/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Lục Ngạn - Bắc Giang
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 20/08/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;