Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con số 45/2021/HNGĐ-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN AN LÃO, THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG

BẢN ÁN 45/2021/HNGĐ-ST NGÀY 22/07/2021 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON 

Ngày 22 tháng 7 năm 2021 tại trụ sở Toà án nhân dân huyện An Lão, thành phố Hải Phòng xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 89/2021/TLST-HNGĐ, ngày 14 tháng 5 năm 2021 về việc: “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 516/2021/QĐXXST-HNGĐ ngày 06 tháng 7 năm 2021 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Chị Cao Thị N, trú tại: Thôn Đ, xã T, huyện A, thành phố Hải Phòng; có mặt tại phiên tòa.

- Bị đơn: Anh Lưu Đình P, trú tại: Thôn Đ, xã T, huyện A, thành phố Hải Phòng; có mặt tại phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện đề ngày 10 tháng 5 năm 2021 và các bản tự khai của nguyên đơn chị Cao Thị N trình bày:

Chị N xây dựng hạnh phúc với anh Lưu Đình P trên cơ sở tự nguyện và có đăng ký kết hôn ngày 25 tháng 11 năm 2007 tại Ủy ban nhân dân xã T, huyện A, thành phố Hải Phòng. Sau khi kết hôn vợ chồng chung sống tại thôn Đ, xã T, huyện A, thành phố Hải Phòng. Những năm đầu chung sống tình cảm vợ chồng hòa thuận và có 03 con chung. Trong quá trình chung sống đến năm 2018 thì vợ chồng xảy mâu thuẫn, nguyên nhân do bất đồng quan điểm, anh P sống không chung thủy với chị, anh P có quan hệ tình cảm với người phụ nữ khác. Chị và gia đình biết đã khuyên can nhưng anh P không thay đổi, vợ chồng nhiều lần xảy ra mâu thuẫn, xô xát với nhau, anh P đánh đập và đe dọa chị. Chị N kiên nhẫn chịu đựng vì các con còn nhỏ nhưng anh P vẫn không thay đổi và vẫn xảy ra bạo lực gia đình đối với chị, cuộc sống vợ chồng không hạnh phúc. Tuy vợ chồng ở chung nhà nhưng đã ly thân nhau từ tháng 7 năm 2020 đến nay. Chị N xét tình cảm vợ chồng không còn, đề nghị Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn anh Lưu Đình P. Về con chung: Chị N và anh P có 03 con chung là Lưu Thị Quỳnh H, sinh ngày 28 tháng 02 năm 2009; Lưu Thị Thảo V, sinh ngày 15 tháng 12 năm 2011 và Lưu Bảo L, sinh ngày 08 tháng 12 năm 2015. Ly hôn chị đề nghị được nuôi con Lưu Thị Quỳnh H và Lưu Thị Thảo V, chị nhường anh P nuôi con Lưu Bảo L, hai bên không phải cấp dưỡng nuôi con cho nhau. Sau khi ly hôn chị đưa 02 con về nhà bố mẹ đẻ ở xã T, huyện A, thành phố Hải Phòng. Về tài sản chung: Chị N tự thỏa thuận với anh P, chị không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Bị đơn anh Lưu Đình P trình bày: Anh nhất trí lời khai của chị N về thời gian và điều kiện kết hôn. Quá trình chung sống đến năm 2017 thì vợ chồng xảy ra mâu thuẫn nguyên nhân do bất đồng quan điểm, vợ chồng có mâu thuẫn nhỏ nhặt trong sinh hoạt cuộc sống, có cãi cọ, xô xát với nhau nhưng chưa đến mức độ ly hôn. Gia đình hai bên chưa biết, chưa hòa giải, chị N nóng vội làm đơn xin ly hôn anh, anh mong muốn vợ chồng đoàn tụ nuôi dạy con chung, hiện nay vợ chồng anh vẫn chung sống với nhau cùng nhà nhưng chị N tự sống ly thân với anh 01 năm nay. Chị N kiên quyết ly hôn anh thì tự chị N quyết định, anh không đồng ý ly hôn. Về con chung: Anh nhất trí vợ chồng có 03 con chung, họ, tên, tuổi các con như chị N trình bày. Nếu chị N kiên quyết ly hôn anh và yêu cầu được nuôi 02 con, anh không đồng ý, anh đề nghị Tòa án giải quyết cho anh được nuôi cả 03 con và anh không yêu cầu chị N cấp dưỡng nuôi các con. Về tài sản chung: Anh P không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Đại diện Viện Kiểm sát nhân dân huyện An Lão, thành phố Hải Phòng tại phiên tòa phát biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa đã đảm bảo đúng quy định của pháp luật. Nguyên đơn chị Cao Thị N và bị đơn anh Lưu Đình P đã thực hiện đúng các quyền và nghĩa vụ của mình theo quy định của pháp luật. Về đường lối giải quyết vụ án: Đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ vào khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự; các điều 51, 56, 57, 81, 82, 83 Luật hôn nhân và gia đình, xử cho chị Cao Thị N được ly hôn anh Lưu Đình P; về con chung: Giao con Lưu Thị Quỳnh H, sinh ngày 28 tháng 02 năm 2009 và Lưu Thị Thảo V, sinh ngày 15 tháng 12 năm 2011 cho chị Cao Thị N nuôi dưỡng; giao con Lưu Bảo L, sinh ngày 08 tháng 12 năm 2015 cho anh Lưu Đình P nuôi dưỡng cho đến khi các con đủ 18 tuổi hoặc có sự thay đổi khác theo quy định của pháp luật. Hai bên không phải cấp dưỡng nuôi con cho nhau; về tài sản chung: Chị N và anh P không yêu cầu Tòa án giải quyết, đề nghị Hội đồng xét xử không xem xét; về án phí: Căn cứ vào khoản 4 Điều 147 Bộ luật Tố tụng dân sự; điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí tòa án, chị Cao Thị N phải nộp 300.000đ (ba trăm nghìn đồng) án phí dân sự sơ thẩm.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định:

- Về tố tụng:

[1] Về thẩm quyền giải quyết: Chị Cao Thị N có đơn khởi kiện đề nghị tòa án giải quyết ly hôn, tranh chấp nuôi con đối với anh Lưu Đình P. Anh P có nơi cư trú tại thôn Đ, xã T, huyện A, thành phố Hải Phòng. Căn cứ vào khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự, vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện An Lão, thành phố Hải Phòng.

- Về nội dung:

[2] Về quan hệ hôn nhân: Chị Cao Thị N và anh Lưu Đình P xây dựng hạnh phúc với nhau trên cơ sở tự nguyện và có đăng ký kết hôn ngày 25 tháng 11 năm 2007 tại Ủy ban nhân dân xã T, huyện A, thành phố Hải Phòng được xác định là hôn nhân hợp pháp. Sau khi kết hôn anh chị chung sống tại thôn Đ, xã T, huyện A, thành phố Hải Phòng. Quá trình chung sống đến năm 2018 chị N và anh P xảy ra mâu thuẫn nguyên nhân do bất đồng quan điểm, vợ chồng không tìm được tiếng nói chung, anh P làm mất niềm tin về mặt tình cảm đối với chị N. Vợ chồng nhiều lần cãi vã, xô xát, cuộc sống vợ chồng không hạnh phúc, tuy anh P chị N chung sống cùng nhà nhưng vợ chồng đã ly thân nhau khoảng 01 năm nay, không còn quan tâm đến nhau. Chị N xin ly hôn anh P, anh P xin đoàn tụ nhưng anh không có biện pháp gì để hàn gắn tình cảm vợ chồng. Xét thấy tình trạng mâu thuẫn giữa chị N và anh P đã trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Chị N xin ly hôn anh P có căn cứ, được Hội đồng xét xử chấp nhận.

[3] Về con chung: Chị N và anh P có 03 con chung là Lưu Thị Quỳnh H, sinh ngày 28 tháng 02 năm 2009; Lưu Thị Thảo V, sinh ngày 15 tháng 12 năm 2011 và Lưu Bảo L, sinh ngày 08 tháng 12 năm 2015. Ly hôn chị N đề nghị được nuôi con Lưu Thị Quỳnh H và Lưu Thị Thảo V, chị nhường anh P nuôi con Lưu Bảo L, hai bên không phải cấp dưỡng nuôi con cho nhau. Anh P đề nghị được nuôi cả 03 con và không yêu cầu chị N cấp dưỡng nuôi các con. Chị N và anh P tranh chấp với nhau về việc nuôi con. Căn cứ vào tài liệu xác minh hiện chị N có công việc, có thu nhập và được sự hỗ trợ của gia đình sau khi ly hôn có nơi ở ổn định đảm bảo điều kiện nuôi các con, cháu Hương và cháu Vân đều trên 7 tuổi có đơn đề nghị được ở với chị N. Anh P hiện là lao động tự do, có nơi ở ổn định đảm bảo nuôi con. Căn cứ Điều 81 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014, Hội đồng xét xử giao cho chị N được nuôi con Lưu Thị Quỳnh H và Lưu Thị Thảo V; giao cho anh P nuôi con Lưu Bảo L là phù hợp với thực tế.

[4] Về tài sản chung: Chị Cao Thị N và anh Lưu Đình P không yêu cầu tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[5] Về án phí: Chị Cao Thị N phải nộp án phí dân sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1 Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39; khoản 4 Điều 147; Điều 235 và Điều 266 của Bộ luật Tố tụng dân sự;

Căn cứ vào các điều 19, 51, 53, 56, 81, 82, 83 của Luật Hôn nhân và gia đình; Căn cứ điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí tòa án.

Tuyên xử:

1. Chị Cao Thị N được ly hôn anh Lưu Đình P.

2. Về con chung: Giao con Lưu Thị Quỳnh H, sinh ngày 28 tháng 02 năm 2009 và Lưu Thị Thảo V, sinh ngày 15 tháng 12 năm 2011 cho chị Cao Thị N nuôi dưỡng; giao con Lưu Bảo L, sinh ngày 08 tháng 12 năm 2015 cho anh Lưu Đình P nuôi dưỡng đến khi các con đủ 18 tuổi hoặc có sự thay đổi khác theo quy định của pháp luật. Hai bên không phải cấp dưỡng nuôi con cho nhau.

Sau khi ly hôn, người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở.

3. Về án phí: Chị Cao Thị N phải nộp 300.000đ (ba trăm nghìn đồng) án phí dân sự sơ thẩm nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí chị Cao Thị N đã nộp là 300.000đ (ba trăm nghìn đồng) theo biên lai thu tiền tạm ứng án phí số 0019259 ngày 14 tháng 5 năm 2021 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện An Lão, thành phố Hải Phòng. Chị Cao Thị N đã nộp đủ án phí.

Trong trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại Điều 6, Điều 7, Điều 7a và Điều 9 Luật Thi hành án dân sự. Thời hiệu thi hành án dân sự được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

4. Về quyền kháng cáo bản án: Chị Cao Thị N và anh Lưu Đình P có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

146
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con số 45/2021/HNGĐ-ST

Số hiệu:45/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện An Lão - Hải Phòng
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 22/07/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;