Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con số 42/2021/HNGĐ-ST

A ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ THUẬN AN, TỈNH BÌNH DƯƠNG

BẢN ÁN 42/2021/HNGĐ-ST NGÀY 24/05/2021 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON

Ngày 24 tháng 5 năm 2021, tại Trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Thuận An xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 1482/2020/TLST-HNGĐ ngày 25 tháng 12 năm 2020 về việc ly hôn, tranh chấp về nuôi con theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 16/2021/QĐXXST-HNGĐ ngày 08 tháng 4 năm 2021, giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Bà Nguyễn Thị MT, sinh năm 1996; HKTT: Ấp BP, xã BA, huyện TS, tỉnh An Giang. Có đơn yêu cầu giải quyết vắng mặt;

- Bị đơn: Ông Trần Tuấn V, sinh năm 1993; HKTT: Ấp MP, xã HMĐ, huyện CM, tỉnh An Giang. Vắng mặt lần thứ 2.

Cùng địa chỉ tạm trú: xz, khu phố HL, phường TG, thành phố Thuận An, tỉnh Bình Dương.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện ngày 02/12/2020, quá trình tố tụng nguyên đơn là bà Nguyễn Thị MT trình bày:

Bà Nguyễn Thị MT và ông Trần Tuấn V quen biết và tự tìm hiểu nhau, đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã HMĐ, huyện Chợ Mới, tỉnh An Giang theo Giấy chứng nhận kết hôn số 30/2014, quyển số 01/2003 ngày 07/02/2014.

Sau khi kết hôn, cuộc sống hạnh phúc được một thời gian thì phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân là do tính tình không còn phù hợp, bất đồng trong cuộc sống, thường xuyên cãi vã, cuộc sống không còn hạnh phúc. Nhận thấy tình cảm không còn, xung đột và mâu thuẫn giữa vợ chồng ngày càng trầm trọng, không thể tiếp tục chung sống với nhau được nữa, hai người không còn sống chung với nhau đã lâu, bà Nguyễn Thị MT yêu cầu:

- Về quan hệ hôn nhân: Được ly hôn với ông Trần Tuấn V.

- Về con chung: Bà Nguyễn Thị MT và ông Trần Tuấn V sinh được 02 con chung tên Trần Nguyễn Hải Đ, sinh ngày 30/11/2015 và Trần Nguyễn Anh K, sinh ngày 14/10/2017. Hiện nay, con là Trần Nguyễn Hải Đ đang sống cùng ông Trần Tuấn V; con là Trần Nguyễn Anh K đang sống cùng với bà Nguyễn Thị MT. Sau ly hôn, bà Nguyễn Thị MT yêu cầu được trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng con chung là Trần Nguyễn Anh K, giao con chung là Trần Nguyễn Hải Đ cho ông Trần Tuấn V trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng;

- Về cấp dưỡng nuôi con: Do cả hai người đều trực tiếp nuôi con nên không ai phải cấp dưỡng nuôi con.

- Về tài sản chung, nợ chung: Không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Bị đơn là ông Trần Tuấn V đã được Tòa án tống đạt các văn bản tố tụng và giấy triệu tập nhiều lần nhưng không đến Tòa án, cũng không nộp văn bản ghi ý kiến của mình đối với yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thuận An có ý kiến:

Về tố tụng: Thư ký, Thẩm phán, Hội đồng xét xử đã tuân theo pháp luật tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án, các đương sự không bị hạn chế các quyền khi tham gia tố tụng, nguyên đơn chấp hành đúng pháp luật tố tụng, bị đơn đã được tống đạt hợp lệ nhưng lần thứ 2 vắng mặt tại phiên tòa là tự từ bỏ quyền chứng minh, tranh tụng của mình, không mong muốn hàn gắn tình cảm gia đình; nguyên đơn có đơn yêu cầu giải quyết vắng mặt nên Tòa án xét xử vụ án vắng mặt các đương sự là đúng quy định tại khoản 2 Điều 227 của Bộ luật Tố tụng dân sự.

Về nội dung vụ án, đại diện Viện kiểm sát cho rằng mâu thuẫn giữa bà Nguyễn Thị MT và ông Trần Tuấn V là trầm trọng, hai người sống ly thân đã lâu không thể đoàn tụ chung sống với nhau, mục đích hôn nhân không đạt được. Về con chung: Hiện tại cháu Khôi đang sống cùng bà Nguyễn Thị MT; cháu Đăng đang sống cùng ông Trần Tuấn V. Bà Nguyễn Thị MT yêu cầu được trực tiếp nuôi dưỡng cháu Khôi, giao cháu Đang cho ông Trần Tuấn V nuôi dưỡng là phù hợp nên chấp nhận. Về cấp dưỡng nuôi con: Do cả hai người đều trực tiếp nuôi con nên không ai phải cấp dưỡng nuôi con. Về tài sản chung, nợ chung bà Nguyễn Thị MT không yêu cầu giải quyết nên không xem xét; đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa, căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về tố tụng, quan hệ tranh chấp và thẩm quyền giải quyết:

Ông Trần Tuấn V là bị đơn đã được tống đạt hợp lệ nhưng lần thứ 2 vắng mặt tại phiên tòa là tự từ bỏ quyền chứng minh, tranh tụng của mình. Do đó, căn cứ quy định tại điểm b khoản 2 Điều 227 của Bộ luật Tố tụng dân sự, Tòa án xét xử vụ án vắng mặt ông Trần Tuấn V. Bà Nguyễn Thị MT có đơn yêu cầu xét xử vắng mặt nên căn cứ vào khoản 1 Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự, Tòa án xét xử vụ án vắng mặt bà Nguyễn Thị MT.

Bà Nguyễn Thị MT khởi kiện ly hôn, tranh chấp về con chung với ông Trần Tuấn V, đây là tranh chấp quy định tại khoản 1 Điều 28 của Bộ luật Tố tụng dân sự; ông Trần Tuấn V là bị đơn hiện đang cư trú tại phường Thuận Giao, thành phố Thuận An nên Tòa án nhân dân thành phố Thuận An thụ lý, giải quyết là đúng thẩm quyền theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự.

[2] Về quan hệ hôn nhân: Bà Nguyễn Thị MT và ông Trần Tuấn V quen biết, tự tìm hiểu nhau và có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân HMĐ, huyện Chợ Mới, tỉnh An Giang theo giấy chứng nhận kết hôn số 30/2014, quyển số 01/2003 ngày 07/02/2014, đây là hôn nhân hợp pháp.

[3] Về mâu thuẫn vợ chồng:

Theo trình bày của bà Nguyễn Thị MT, sau khi kết hôn, cuộc sống vợ chồng hạnh phúc được một thời gian thì phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân chủ yếu là do tính tình thay đổi, thường xuyên cãi vã, lâu dần làm cho cuộc sống hàng ngày căng thẳng, mệt mỏi, không có tiếng nói chung, dần dần mất tình cảm, không còn quan tâm đến nhau, mạnh ai nấy sống. Hiện nay, bà Nguyễn Thị MT và ông Trần Tuấn V đã ở riêng, không còn chung sống với nhau chứng tỏ mâu thuẫn giữa hai người rất trầm trọng.

Quá trình giải quyết vụ án, mặc dù được triệu tập hợp lệ nhiều lần nhưng ông Trần Tuấn V không đến Tòa án, điều đó cho thấy ông Trần Tuấn V không có mong muốn hàn gắn hạnh phúc gia đình với bà Nguyễn Thị MT. Như vậy, trình bày của bà Nguyễn Thị MT về mâu thuẫn vợ chồng trầm trọng là có căn cứ. Mục đích hôn nhân giữa bà Nguyễn Thị MT và ông Trần Tuấn V nhằm tạo lên một gia đình hòa thuận, hạnh phúc, vợ chồng yêu thương, giúp đỡ nhau, cùng nhau nuôi dạy các con và xây dựng kinh tế gia đình không đạt được. Xét thấy, mâu thuẫn giữa bà Nguyễn Thị MT và ông Trần Tuấn V là trầm trọng, mục đích hôn nhân không đạt được, đời sống chung không thể kéo dài, không thể đoàn tụ để chung sống được nữa, nên trình bày của bà Nguyễn Thị MT về mâu thuẫn vợ chồng, không còn tình cảm và xin được ly hôn với ông Trần Tuấn V là có căn cứ, phù hợp với quy định tại Khoản 1 Điều 56 của Luật hôn nhân và gia đình nên cần chấp nhận.

[4] Về con chung và cấp dưỡng nuôi con chung:

Bà Nguyễn Thị MT và ông Trần Tuấn V sinh được 02 người con chung tên Trần Nguyễn Hải Đ, sinh ngày 30/11/2015 và Trần Nguyễn Anh K, sinh ngày 14/10/2017. Theo trình bày của bà Nguyễn Thị MT, hiện nay cháu Trần Nguyễn Hải Đ đang sống cùng ông Trần Tuấn V còn cháu Trần Nguyễn Anh K đang sống cùng bà Nguyễn Thị MT. Như vậy, yêu cầu của bà Nguyễn Thị MT về việc sau khi ly hôn được trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng con chung là Trần Nguyễn Anh K và giao con chung là Trần Nguyễn Hải Đ cho ông Trần Tuấn V trực tiếp nuôi dưỡng là phù hợp, không gây ảnh hưởng nhiều đến cuộc sống của các con chung nên được chấp nhận. Do bà Nguyễn Thị MT và ông Trần Tuấn V đều có nghĩa vụ trực tiếp nuôi con nên không ai phải cấp dưỡng nuôi con. Người không trực tiếp nuôi con có quyền thăm nom con theo quy định của pháp luật, không ai được cản trở; tuy nhiên không được lạm dụng quyền thăm con để gây cản trở, ảnh hưởng đến cuộc sống và học tập của con và người trực tiếp nuôi con. Vì lợi ích của con, theo yêu cầu của một hoặc cả hai bên, Tòa án có thể thay đổi người trực tiếp nuôi con hoặc mức cấp dưỡng nuôi con.

[5] Về tài sản chung, nợ chung: Các đương sự không yêu cầu giải quyết nên không xem xét.

Ý kiến phát biểu của Kiểm sát viên tại phiên tòa là có căn cứ, phù hợp nên được chấp nhận.

[6] Về án phí: Bà Nguyễn Thị MT phải chịu án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên;

Căn cứ vào:

QUYẾT ĐỊNH

- Khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39; khon 2 Điều 227; khoản 1 Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự;

- Khoản 1 Điều 51; khoản 1 Điều 56; các điều 68, 69, 70, 71, 72; 81, 82 và Điều 83 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014;

- Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội Khóa XIV quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Nguyễn Thị MT về việc ly hôn, tranh chấp về nuôi con với ông Trần Tuấn V.

- Về quan hệ hôn nhân: Bà Nguyễn Thị MT được ly hôn ông Trần Tuấn V.

- Về con chung: Giao con chung tên Trần Nguyễn Anh K, sinh ngày 14/10/2017 cho bà Nguyễn Thị MT trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng; giao con chung tên Trần Nguyễn Hải Đ, sinh ngày 30/11/2015 cho ông Trần Tuấn V trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng; không ai phải cấp dưỡng nuôi con.

Người không trực tiếp nuôi con có quyền thăm nom con, không ai được cản trở. Vì lợi ích của con, theo yêu cầu của một hoặc cả hai bên, Tòa án có thể thay đổi người trực tiếp nuôi con hoặc mức cấp dưỡng nuôi con.

- Về tài sản chung, nợ chung: Không xem xét.

2. Về án phí:

Bà Nguyễn Thị MT phải chịu 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm được trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp theo Biên lai thu tiền số 0053402 ngày 22/12/2020 của Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Thuận An.

Nguyên đơn, bị đơn có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

158
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con số 42/2021/HNGĐ-ST

Số hiệu:42/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Thuận An - Bình Dương
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 24/05/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;