Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con số 41/2022/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN GIỒNG TRÔM, TỈNH BẾN TRE

BẢN ÁN 41/2022/HNGĐ-ST NGÀY 23/03/2022 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON

Ngày 23/3/2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Giồng Trôm, tỉnh Bến Tre xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 381/2021/TLST-HNGĐ, ngày 31/12/2021 về việc “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 26/2022/QĐXXST-HNGĐ ngày 18/02/2022 và Quyết định hoãn phiên tòa số 34/2022/QĐST-HNGĐ ngày 07/3/2022, giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Chị Nguyễn Thị Hồng T, sinh năm 1978 Địa chỉ: Ấp P, xã C, huyện G, tỉnh Bến Tre Địa chỉ liên hệ: Số 141, ấp T, xã C, huyện G, tỉnh Bến Tre

- Bị đơn: Anh Trần Thanh B, sinh năm 1976 Địa chỉ: Số 62, ấp P, xã C, huyện G, tỉnh Bến Tre (Chị T có đơn yêu cầu giải quyết vắng mặt, anh B vắng mặt tại phiên tòa không có lý do)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo nguyên đơn chị Nguyễn Thị Hồng T trình bày:

Chị và anh Trần Thanh B kết hôn vào năm 1999, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã C, huyện G, tỉnh Bến Tre vào ngày 24/7/2014. Sau khi kết hôn, anh chị sống tại ấp P, xã C, huyện G, tỉnh Bến Tre. Thời gian đầu chung sống hạnh phúc, sau đó thì bắt đầu phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân là do không hợp nhau, anh chị đã ly thân khoảng 1 năm nay.

Nay chị xác định không còn tình cảm với anh Trần Thanh B nữa, chị yêu cầu Tòa án giải quyết như sau:

- Về hôn nhân: Chị T yêu cầu được ly hôn với anh Trần Thanh B, không yêu cầu cấp dưỡng giữa vợ và chồng khi ly hôn.

- Về con chung: Chị T và anh Trần Thanh B có 2 con chung: Trần Thị Ngọc T1, sinh ngày 26/5/2014; Trần Thanh N, sinh ngày 25/01/2000. Chị T yêu cầu được trực tiếp nuôi cháu Trần Thị Ngọc T1, không yêu cầu anh B cấp dưỡng nuôi con. Đối với cháu Trần Thanh N đã trưởng thành nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.

quyết.

- Về tài sản chung: Chị T khai không có nên không yêu cầu Tòa án giải - Về nợ chung: Chị T khai không có nên không yêu cầu Tòa án giải quyết. Do bận công việc nên chị T có đơn yêu cầu Tòa án giải quyết vắng mặt chị. Theo bị đơn anh Trần Thanh B trình bày:

Anh và chị Nguyễn Thị Hồng T sống chung với nhau được khoảng trên 20 năm và có được 2 con. Gần đây chị T có ý nghi ngờ anh và người bạn cùng xóm, tỏ thái độ ghen tuông và đối xử lạnh nhạt với anh. Khi về nhà, mỗi lần có rượu trong người thì anh có cằn nhằn với chị T và đuổi chị T đi nhiều lần nên chị T đã bỏ về nhà mẹ ruột ở. Anh có đến gặp chị T năn nỉ và xin lỗi nhưng chị T không chịu về. Nay anh xác định còn thương vợ con nên xin Tòa án tạo điều kiện cho anh và chị T hàn gắn tình cảm vợ chồng.

Tại phiên tòa sơ thẩm hôm nay, Nguyên đơn chị Nguyễn Thị Hồng T có đơn yêu cầu giải quyết vắng mặt và vẫn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện như ban đầu.

Bị đơn anh Trần Thanh B đã được Tòa án triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai để tham gia phiên tòa nhưng vẫn vắng mặt không có lý do.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện G phát biểu quan điểm:

Về tố tụng: Người tiến hành tố tụng, người tham gia tố tụng đã tuân theo đúng quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự. Riêng bị đơn anh Trần Thanh B chưa thực hiện đúng quyền và nghĩa vụ tố tụng của mình.

Về nội dung: Đề nghị chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Nguyễn Thị Hồng T.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Qua nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa, căn cứ vào lời trình bày của đương sự trong quá trình giải quyết vụ án. Xét yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn chị Nguyễn Thị Hồng T và đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện G. Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về tố tụng:

- Chị Nguyễn Thị Hồng T khởi kiện yêu cầu Tòa án xem xét cho chị được ly hôn với anh Trần Thanh B và được trực tiếp nuôi con chung chưa thành niên.

Do đó, Hội đồng xét xử xác định quan hệ pháp luật trong vụ án này là “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con”.

- Bị đơn anh Trần Thanh B hiện đang cư trú tại ấp P, xã C, huyện G, tỉnh Bến Tre. Do đó, căn cứ vào các Điều 28, Điều 35, Điều 39 Bộ luật Tố tụng dân sự, Tòa án nhân dân huyện G thụ lý giải quyết vụ án theo thủ tục sơ thẩm là đúng thẩm quyền.

- Chị Nguyễn Thị Hồng T có đơn yêu cầu giải quyết vắng mặt. Vì vậy, căn cứ vào khoản 1 Điều 227 và khoản 1 Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt đối với chị T.

- Bị đơn anh Trần Thanh B đã được Tòa án triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai để tham gia phiên tòa nhưng vẫn vắng mặt không có lý do. Vì vậy, căn cứ vào khoản 2 Điều 227 Bộ luật Tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt đối với anh B.

[2] Về nội dung:

[2.1] Về quan hệ hôn nhân: Chị Nguyễn Thị Hồng T và anh Trần Thanh B kết hôn vào năm 1999, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã C, huyện G, tỉnh Bến Tre vào ngày 24/7/2014. Đây là hôn nhân hợp pháp được pháp luật công nhận và bảo vệ.

Trong quá trình chung sống, chị T cho rằng chị và anh B hai bên không có tiếng nói chung, vợ chồng không hợp nhau, thường xuyên cự cãi. Anh chị đã ly thân khoảng 1 năm nay. Nay chị xác định không còn tình cảm với anh B nữa nên cương quyết xin được ly hôn. Về phía anh B, anh cũng thừa nhận giữa anh và chị T có phát sinh mâu thuẫn, chị T nghi ngờ anh có mối quan hệ bất chính với người phụ nữ khác. Khi về nhà, mỗi lần có rượu trong người thì anh có cằn nhằn với chị T và đuổi chị T đi nhiều lần. Anh B không đồng ý ly hôn với chị T vì lý do anh còn thương vợ con, anh mong muốn vợ chồng được đoàn tụ để cùng nhau nuôi con nhưng khi Tòa án tổ chức phiên hòa giải nhằm tạo điều kiện cho các bên hàn gắn tình cảm vợ chồng thì anh B lại không đến. Đồng thời, anh B cũng không đưa ra được biện pháp gì khả thi để hàn gắn tình cảm vợ chồng.

Xét thấy, mâu thuẫn giữa chị T và anh B là có thật và cả hai không tìm cách tháo gỡ được làm cho hôn nhân giữa anh chị đã lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được nên ly hôn là biện pháp tốt nhất cho cả hai.

[2.2] Về con chung: Chị T và anh Trần Thanh B có 2 con chung: Trần Thị Ngọc T1, sinh ngày 26/5/2014; Trần Thanh N, sinh ngày 25/01/2000. Chị T yêu cầu được trực tiếp nuôi cháu Trần Thị Ngọc T1, không yêu cầu anh B cấp dưỡng nuôi con. Đối với cháu Trần Thanh N đã trưởng thành nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Xét thấy cháu Trần Thị Ngọc T1 hiện đang sống với mẹ và có cuộc sống, học tập, sinh hoạt ổn định. Việc sống chung với mẹ là phù hợp với nguyện vọng của cháu T1. Đồng thời, phía anh B cũng không có ý kiến gì về vấn đề con chung nên Hội đồng xét xử chấp nhận để chị Nguyễn Thị Hồng T là người trực tiếp nuôi cháu Trần Thị Ngọc T1 cho đến khi cháu T1 đủ 18 tuổi. Xét việc chị T không yêu cầu anh B cấp dưỡng nuôi con là hoàn toàn tự nguyện nên Hội đồng xét xử ghi nhận. Đối với cháu Trần Thanh N hiện đã trưởng thành, có khả năng tự lao động nuôi sống bản thân nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[2.3] Về tài sản chung: Chị Nguyễn Thị Hồng T khai không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[2.4] Về nợ chung: Chị Nguyễn Thị Hồng T khai không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét.

Xét quan điểm của đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện G là phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên được chấp nhận.

[3] Về án phí: Án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm là 300.000 (ba trăm nghìn) đồng, chị Nguyễn Thị Hồng T phải chịu theo quy định tại Điều 27 Nghị quyết số 326/NQ-UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 1 Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39;

các Điều 147, 227, 228, 271, 273 Bộ luật Tố tụng dân sự;

Áp dụng các Điều 51, 56, 57, 58, 81, 82, 83, 84 Luật Hôn nhân và gia đình; Áp dụng Nghị quyết số 326/NQ-UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, Tuyên xử:

1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn chị Nguyễn Thị Hồng T đối với bị đơn anh Trần Thanh B, cụ thể tuyên:

- Về quan hệ hôn nhân: Chị Nguyễn Thị Hồng T được ly hôn với anh Trần Thanh B.

- Về con chung: Chị Nguyễn Thị Hồng T được trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chung là cháu Trần Thị Ngọc T1, sinh ngày 26/5/2014 cho đến khi cháu T1 đủ 18 tuổi. Ghi nhận việc chị T không yêu cầu anh Trần Thanh B cấp dưỡng cho cháu T1. Đối với cháu Trần Thanh N hiện đã trưởng thành, có khả năng tự lao động nuôi sống bản thân nên Hội đồng xét xử không xem xét.

Sau khi ly hôn, anh B được quyền thăm nom con chung mà không ai được cản trở.

Cha, mẹ không trực tiếp nuôi con lạm dụng việc thăm nom để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con thì người trực tiếp nuôi con có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom con của người đó.

Vì lợi ích về mọi mặt của con chung, khi cần thiết các bên đương sự được quyền yêu cầu Tòa án xem xét thay đổi người trực tiếp nuôi con cũng như quyết định việc cấp dưỡng nuôi con.

- Về tài sản chung: Chị Nguyễn Thị Hồng T khai không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét.

- Về nợ chung: Chị Nguyễn Thị Hồng T khai không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét.

2. Về án phí: Án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm là 300.000 (ba trăm nghìn) đồng chị Nguyễn Thị Hồng T phải chịu, nhưng được khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí sơ thẩm đã nộp 300.000 (ba trăm nghìn) đồng theo biên lai thu số 0004576 ngày 30/12/2021 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện G, tỉnh Bến Tre. Chị T đã nộp xong tiền án phí.

3. Về quyền kháng cáo: Chị Nguyễn Thị Hồng T và anh Trần Thanh B vắng mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 (mười lăm) ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết công khai theo quy định pháp luật để yêu cầu Tòa án cấp trên xét xử phúc thẩm.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, có quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

172
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con số 41/2022/HNGĐ-ST

Số hiệu:41/2022/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Giồng Trôm - Bến Tre
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 23/03/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;