Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con số 41/2021/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ PHÚ MỸ, TỈNH BÀ RỊA – VŨNG TÀU

BẢN ÁN 41/2021/HNGĐ-ST NGÀY 27/04/2021 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON

Ngày 27 tháng 4 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân thị xã Phú Mỹ xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 541/2020/TLST-HNGĐ ngày 03 tháng 11 năm 2021 về việc:“Ly hôn, tranh chấp nuôi con” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 27/2021/QĐXXST-HNGĐ ngày 22 tháng 3 năm 2021 và Quyết định hoãn phiên tòa số 11/2021/QĐST – HNGĐ ngày 06/4/2021 giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Bà Lã Thị K, sinh năm 1993 (Có mặt) Địa chỉ: Xóm I, xã O, huyện Kim Sơn, tỉnh Ninh Bình Chỗ ở: Tổ A, Khu phố B, phường C, thị xã Phú Mỹ, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu.

Bị đơn: Ông Trần Văn T, sinh năm 1991 (Vắng mặt) Địa chỉ: Xóm I, xã O, huyện Kim Sơn, tỉnh Ninh Bình Chỗ ở: Tổ A, Khu phố B, phường C, thị xã Phú Mỹ, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo Đơn khởi kiện, quá trình tố tụng và tại phiên tòa nguyên đơn Bà Lã Thị K trình bày:

- Về quan hệ hôn nhân: Bà và ông Trần Văn T tự nguyện tìm hiểu, tổ chức đám cưới và đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã O, huyện Kim Sơn, tỉnh Ninh Bình vào ngày 03/02/2015, số 13. Sau khi cưới nhau, vợ chồng chung sống hạnh phúc đến năm 2020 thì phát sinh mâu thuẫn.

Nguyên nhân mâu thuẫn: Do bất đồng quan điểm về mọi vấn đề trong cuộc sống, ông T không phụ bà chăm lo cho gia đình nên vợ chồng thường xuyên cãi vã, cuộc sống vợ chồng luôn căng thẳng.

Vì mục đích hôn nhân không đạt được nên không thể tiếp tục chung sống với ông T nên bà đã làm đơn khởi kiện ra Tòa án nhân dân thị xã Phú Mỹ để yêu cầu được ly hôn với ông Trần Văn T.

- Về con chung: Quá trình chung sống giữa bà K và ông T có 01 con chung là Trần Thị Thu M, sinh ngày 29/8/2016. Khi ly hôn bà K có nguyện vọng giao cháu M cho ông T trực tiếp đến tuổi trưởng thành (Đủ 18 tuổi), bà K không cấp dưỡng nuôi con.

- Về tài sản chung, nợ chung: Không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Trong suốt quá trình tố tụng và tại phiên tòa bị đơn ông Trần Văn T vắng mặt không cung cấp ý kiến về yêu cầu khởi kiện của Bà Lã Thị K.

Ý kiến phát biểu của Kiểm sát viên về việc giải quyết vụ án:

- Về tố tụng: Tòa án nhân dân thị xã Phú Mỹ thụ lý và giải quyết vụ việc trên là đúng thẩm quyền. Trong quá trình giải quyết, Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký Tòa án đã tiến hành các thủ tục tố tụng đúng quy định của pháp luật.

Về việc chấp hành pháp luật của những người tham gia tố tụng: Nguyên đơn đã chấp hành đầy đủ quyền, nghĩa vụ của mình, còn bị đơn không chấp hành quyền và nghĩa vụ của mình theo quy định tại các Điều 70, 71, 72 của Bộ luật tố tụng dân sự.

- Về nội dung vụ án: Căn cứ những tài liệu, chứng cứ và lời khai có trong hồ vụ án cũng như sự trình bày của bà K tại Phiên tòa, xét thấy mâu thuẫn giữa bà K và ông T là có thật nên đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà K -Về con chung: Đề nghị Hội đồng xét xử giao con chung cho ông T trực tiếp nuôi theo yêu cầu của bà K, bà K không cấp dưỡng nuôi con.

- Về tài sản chung, nợ chung: Đương sự không yêu cầu nên không giải quyết.

[1] Về tố tụng:

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1.1] Về quan hệ tranh chấp, thẩm quyền giải quyết: Căn cứ theo nội dung Đơn khởi kiện và các tài liệu, chứng cứ do nguyên đơn cung cấp, bị đơn có địa chỉ tại phường C, thị xã Phú Mỹ, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu nên xác định vụ việc giải quyết trên thuộc loại quan hệ về “Ly hôn, tranh chấp nuôi con”, thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân thị xã Phú Mỹ theo quy định tại các Điều 28, 35, 39 của Bộ luật tố tụng dân sự.

[1.2] Về giải quyết vắng mặt bị đơn: Đối với ông Trần Văn T đã được Tòa án tống đạt, niêm yết các văn bản tố tụng theo đúng quy định của pháp luật nhưng vẫn vắng mặt. Căn cứ điểm b khoản 2 Điều 227 của Bộ luật tố tụng dân sự Tòa án vẫn tiến hành xét xử vụ án theo quy định.

[2] Nội dung giải quyết:

[2.1] Về quan hệ hôn nhân: Bà Lã Thị K và ông Trần Văn T đã tự nguyện đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã O, huyện Kim Sơn, tỉnh Ninh Bình vào ngày 03/02/2015, số 13, nên hôn nhân giữa bà K và ông T là hợp pháp.

Theo bà K trình bày, nguyên nhân mâu thuẫn do bất đồng quan điểm sống, cách sống, ông T không thấu hiểu bà nên vợ chồng thường xuyên cãi vã, cuộc sống vợ chồng luôn căng thẳng.

Mặc dù đây chỉ là lời khai một phía từ bà K không được ông T xác nhận, nhưng suốt quá trình tố tụng ông T biết bà K khởi kiện ly hôn tại Tòa, Tòa án đã triệu tập ông nhiều lần nhưng ông không đến cũng như không cung cấp tài liệu chứng cứ liên quan đến yêu cầu khởi kiện của bà K, điều này thể hiện ông không có thiện chí hàn gắn hôn nhân với bà K.

Qua đó khẳng định mẫu thuẫn giữa bà K và ông T là trầm trọng, hôn nhân không thể hàn gắn. Từ đó Hội đồng xét xử nhận thấy mục đích hôn nhân giữa bà K và ông T không đạt được cần chấp nhận yêu cầu của ly hôn của bà K.

[2.2] Về con chung:

Giữa bà K và ông T có 01 con chung là Trần Thị Thu M, sinh ngày 29/8/2016, bà K có nguyện vọng giao con chung cho ông T trực tiếp nuôi khi ly hôn. Mặt dù ông T không có ý kiến phản hồi về con chung. Tuy nhiên, theo như thông tin mà bà K cung cấp thì hiện nay cháu M đang ở với ông T.

Từ những phân tích đánh giá như trên, xét thấy giao con chung cho ông T trực tiếp nuôi đến tuổi trưởng thành (Đủ 18 tuổi) là phù hợp.

quyết.

[2.3] Về cấp dưỡng nuôi con: Đương sự không yêu cầu Tòa án giải

[2.4] Về tài sản chung, nợ chung: Đương sự không yêu cầu nên không xem xét giải quyết.

[3] Về án phí: Bà K phải chịu 300.000 đồng.

[4] Về quyền kháng cáo: Bà K và ông T được quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Áp dụng: Các Điều 51, Điều 56, Điều 81, Điều 82, Điều 83 và Điều 84 của Luật Hôn nhân và gia đình 2014; các Điều 28, Điều 35, Điều 39, Điều 147, Điều 227, Điều 228 và Điều 273 của Bộ luật tố tụng dân sự.

Tuyên xử:

1. Chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của Bà Lã Thị K.

- Về quan hệ hôn nhân: Bà Lã Thị K được ly hôn với ông Trần Văn T.

- Về con chung: Căn cứ theo nguyện vọng của bà K nay giao cháu Trần Thị Thu M, sinh ngày 29/8/2016 cho ông Trần Văn T trực tiếp nuôi dưỡng cháu đến tuổi trưởng thành (Đủ 18 tuổi). Buộc Bà Lã Thị K phải giao cháu M cho ông T trực tiếp nuôi dưỡng.

Sau khi ly hôn, bà Lã Thị K có quyền, nghĩa vụ thăm nom, chăm sóc, giáo dục con chung mà không ai được quyền cản trở.

Cha mẹ không trực tiếp nuôi con lạm dụng việc thăm nom để cản trở hoặc ảnh hưởng xấu đến việc thăm con, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con thì người trực tiếp nuôi con có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom của người đó.

- Về cấp dưỡng nuôi con: Đương sự không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Vì lợi ích của con chung, trong trường hợp có yêu cầu của cha, mẹ hoặc cá nhân, tổ chức theo quy định tại khoản 5 Điều 84 Luật hôn nhân gia đình, Tòa án có thể quyết định việc thay đổi người trực tiếp nuôi con và việc cấp dưỡng nuôi con.d

- Về tài sản chung, nợ chung: Không xem xét giải quyết.

2. Về án phí hôn nhân sơ thẩm: Bà Lã Thị K phải chịu 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) và được khấu trừ vào tiền tạm ứng án phí đã nộp theo Biên lai thu tiền số 0006038 ngày 24 tháng 10 năm 2020 của Chi cục Thi hành án dân sự thị xã Phú Mỹ, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu. Như vậy, bà K đã nộp đủ tiền án phí.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

137
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con số 41/2021/HNGĐ-ST

Số hiệu:41/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thị xã Phú Mỹ - Bà Rịa - Vũng Tàu
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 27/04/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;