Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con số 39/2021/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ NHA TRANG, TỈNH KHÁNH HÒA

BẢN ÁN 39/2021/HNGĐ-ST NGÀY 09/04/2021 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON

Ngày 09 tháng 4 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Nha Trang, tỉnh Khánh Hòa xét xử sơ thẩm công khai vụ án hôn nhân gia đình thụ lý số 1462/2020/TLST-HNGĐ ngày 26 tháng 11 năm 2020 về việc “Ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 26/2021/QĐXXST-HNGĐ ngày 01 tháng 3 năm 2021 và quyết định hoãn phiên tòa số 23/2021/QĐST-HNGĐ ngày 23 tháng 3 năm 2021 , giữa:

- Nguyên đơn: Bà Võ Lê Bảo Ng – Sinh năm: 1998 Địa chỉ: xã P, thành phố N, tỉnh Khánh Hòa. Vắng mặt và có đơn xin xét xử vắng mặt.

- Bị đơn: Ông Nguyễn T − Sinh năm: 1998 Địa chỉ: xã P, thành phố N, tỉnh Khánh Hòa. Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Nguyên đơn bà Võ Lê Bảo Ng trình bày:

Bà và ông Nguyễn T tự nguyện chung sống với nhau và có đăng ký kết hôn tại UBND xã P, thành phố Nha Trang năm 2019.

Trong thời gian sống chung, bà và ông T phát sinh nhiều mâu thuẫn do bất đồng quan điểm sống, không thể hòa hợp được với nhau, hơn nữa ông T còn đánh đập bà. Bà và ông T đã cố gắng hàn gắn tình cảm nhưng không thành nên đã sống ly thân từ tháng 11 năm 2020 đến nay. Nay bà yêu cầu được ly hôn với ông T.

Về con chung: Vợ chồng bà có 01 con chung là Nguyễn P, sinh ngày 01 tháng 11 năm 2019. Khi ly hôn, bà yêu cầu được trực tiếp nuôi dưỡng con chung. Về cấp dưỡng nuôi con: Tại đơn khởi kiện bà yêu cầu ông T cấp dưỡng nuôi con mỗi tháng 3.000.000 đồng nhưng sau đó ngày 16 tháng 3 năm 2021, bà Ng có đơn thay đổi ý kiến không yêu cầu ông T phải cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung, nợ chung: Không có, không yêu cầu giải quyết.

Đi với bị đơn ông Nguyễn T: Quá trình giải quyết vụ án, Tòa án đã tiến hành tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng của Tòa án đối với ông T nhưng ông T không đến Tòa án để giải quyết vụ án và cũng không cung cấp văn bản trình bày ý kiến của mình đối với yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn. Do đó, Tòa án không thu thập được lời khai của ông Nguyễn T đối với các vấn đề cần giải quyết của vụ án.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Nha Trang, tỉnh Khánh Hòa phát biểu ý kiến:

- Về việc tuân theo pháp luật tố tụng: Trong quá trình giải quyết vụ án kể từ khi thụ lý cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án, Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa đã tuân thủ đúng các trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự; nguyên đơn đã thực hiện đúng các quyền, nghĩa vụ tố tụng của mình, riêng bị đơn đã được Tòa án triệu tập hợp lệ lần thứ hai nhưng vắng mặt không có lý do nên Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt bị đơn là đúng quy định.

- Về quan điểm giải quyết vụ án: Xét thấy mâu thuẫn giữa bà Ng và ông T đã trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được nên đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, bà Võ Lê Bảo Ng được ly hôn với ông Nguyễn T; về con chung: giao cháu Nguyễn P, sinh ngày 01 tháng 11 năm 2019 cho bà Ng trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục, ông T không phải cấp dưỡng nuôi con; về tài sản chung, nợ chung: bà Ng xác định không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết nên đề nghị Hội đồng xét xử không xem xét.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án đã được xem xét tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về thủ tục tố tụng: Bà Võ Lê Bảo Ng khởi kiện yêu cầu ly hôn, yêu cầu được nuôi con nên quan hệ pháp luật tranh chấp được xác định là “ly hôn, tranh chấp về nuôi con” theo quy định tại khoản 1 Điều 28 của Bộ luật Tố tụng dân sự. Bị đơn ông Nguyễn T có địa chỉ tại thôn P2, xã P, thành phố N, tỉnh Khánh Hòa nên vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân thành phố Nha Trang, tỉnh Khánh Hòa theo điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự.

Trong quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn có đơn xin xét xử vắng mặt; bị đơn đã được Tòa án triệu tập hợp lệ lần thứ hai nhưng vắng mặt không có lý do. Vì vậy Hội đồng xét xử căn cứ điểm a, b khoản 1 Điều 238 Bộ luật tố tụng dân sự tiến hành xét xử vắng mặt nguyên đơn, bị đơn.

[2] Về quan hệ hôn nhân: Bà Võ Lê Bảo Ng và ông Nguyễn T tự nguyện chung sống với nhau, có đăng ký kết hôn và được Ủy ban nhân dân xã P, thành phố Nha Trang cấp giấy chứng nhận kết hôn số 46 ngày 08 tháng 4 năm 2019 nên đây là quan hệ hôn nhân hợp pháp.

Quá trình chung sống, bà Ng cho rằng cuộc sống hôn nhân giữa bà và ông T không hạnh phúc, phát sinh nhiều mâu thuẫn do bất đồng về quan điểm sống và do ông T đánh đập bà. Vợ chồng bất hòa, không tìm được tiếng nói chung nên đã sống ly thân từ tháng 11 năm 2020 đến nay. Nay bà yêu cầu được ly hôn với ông T. Ông T đã được Tòa án đã triệu tập hợp lệ nhiều lần để lấy lời khai, tham gia phiên hòa giải, phiên tòa nhưng đều vắng mặt không có lý do và cũng không cung cấp văn bản trình bày ý kiến của mình đối với yêu cầu ly hôn của bà Ng. Điều này chứng tỏ ông T có thái độ bỏ mặc, không có thiện chí hàn gắn, đoàn tụ gia đình với bà Ng. Như vậy, mâu thuẫn vợ chồng giữa bà Ng và ông T đã thực sự trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Do đó, yêu cầu xin ly hôn của bà Ng là có cơ sở, phù hợp khoản 1 Điều 51, Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình nên được Hội đồng xét xử chấp nhận.

[3] Về con chung: Bà Ng và ông T có 01 con chung là Nguyễn P, sinh ngày 01 tháng 11 năm 2019. Xét thấy: Tính đến thời điếm xét xử, cháu P chưa đủ 36 tháng tuổi nên cần có sự chăm sóc đặc biệt của người mẹ. Vì vậy, yêu cầu của bà Ng về việc được trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chung là có cơ sở, đảm bảo quyền lợi về mọi mặt của con theo quy định tại Điều 81 Luật hôn nhân và gia đình nên được Hội đồng xét xử chấp nhận.

Về cấp dưỡng nuôi con: Ông T không phải cấp dưỡng nuôi con do bà Ng không yêu cầu.

[4] Về tài sản chung và nợ chung: Bà Võ Lê Bảo Ng xác định không có tài sản chung, nợ chung, không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[5] Về án phí: Bà Võ Lê Bảo Ng phải chịu án phí dân sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

[6] Xét quan điểm giải quyết vụ án của đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Nha Trang là phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên chấp nhận.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39; Điều 147; điểm a, b khoản 1 Điều 238; Điều 271 và Điều 273 của Bộ luật tố tụng dân sự;

Căn cứ khoản 1 Điều 51; Điều 56; Điều 81; Điều 82; Điều 83 và Điều 84 của Luật Hôn nhân và gia đình;

Căn cứ điểm a khoản 5 Điều 27 của Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;

Tuyên xử: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.

1. Về quan hệ hôn nhân: Bà Võ Lê Bảo Ng được ly hôn ông Nguyễn T.

2. Về con chung: Giao cháu Nguyễn P, sinh ngày 01 tháng 11 năm 2019 cho bà Võ Lê Bảo Ng trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục đến tuổi trưởng thành. Ông Nguyễn T không phải cấp dưỡng nuôi con do bà Ng không yêu cầu.

Ông T có quyền và nghĩa vụ thăm nom con chung không ai được cản trở, đồng thời có nghĩa vụ tôn trọng quyền của con được sống chung với người trực tiếp nuôi và không được lạm dụng việc thăm nom để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con của người trực tiếp nuôi dưỡng.

Vì quyền lợi của con, khi cần thiết, các bên đương sự có quyền yêu cầu thay đổi người trực tiếp nuôi con hoặc mức cấp dưỡng nuôi con theo quy định của pháp luật.

3. Về tài sản chung và nợ chung: Bà Võ Lê Bảo Ng xác định không có tài sản chung, nợ chung, không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét.

4. Về án phí: Bà Võ Lê Bảo Ng phải nộp 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) án phí dân sự sơ thẩm nhưng được trừ vào 300.000 đồng tiền tạm ứng án phí mà bà Ng đã nộp theo biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số AA/2016/0017973 ngày 26 tháng 11 năm 2020 của Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Nha Trang. Bà Nga đã nộp đủ án phí dân sự sơ thẩm.

5. Nguyên đơn, bị đơn có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

130
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con số 39/2021/HNGĐ-ST

Số hiệu:39/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Nha Trang - Khánh Hoà
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 09/04/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;