Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con số 38/2024/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TRẦN ĐỀ, TỈNH SÓC TRĂNG

BẢN ÁN 38/2024/HNGĐ-ST NGÀY 05/04/2024 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON

Ngày 05 tháng 4 năm 2024, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Trần Đề, tỉnh Sóc Trăng; xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số 329/2023/TLST- HNGĐ ngày 29 tháng 11 năm 2023 về “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con”; theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 21/2024/QĐXXST-HNGĐ ngày 26/02/2024 và Quyết định hoãn phiên tòa số 29/2024/QĐST-HNGĐ ngày 18 tháng 3 năm 2024, giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Anh Thạch B, sinh năm 1991; địa chỉ: Nhà không số, ấp L, xã Đ, huyện T, tỉnh Sóc Trăng.

2. Bị đơn: Chị Huỳnh Thị H, sinh năm 1993; địa chỉ: Nhà không số, ấp L, xã Đ, huyện T, tỉnh Sóc Trăng.

(Nguyên đơn có mặt, bị đơn vắng mặt tại phiên tòa)

NỘI DUNG VỤ ÁN

- Trong đơn khởi kiện ngày 15/8/2023 cũng như tại phiên tòa sơ thẩm, nguyên đơn là anh Thạch B trình bày:

Năm 2011, anh Thạch B kết hôn cùng chị Huỳnh Thị H và được Ủy ban nhân dân xã Đại Ân 2, huyện Trần Đề cấp Giấy chứng nhận kết hôn ngày 29/11/2011. Sau khi kết hôn, vợ chồng chung sống hạnh phúc được thời gian đầu, anh Ba với chị Hồng đã có 01 con chung là cháu Thạch Thành Đ (Nam), sinh ngày 17/4/2012.

Do bất đồng quan điểm làm phát sinh mâu thuẫn, vợ chồng không khắc phục được nên mâu thuẫn ngày càng nghiêm trọng, không còn hạnh phúc, đã không còn sống chung từ năm 2020. Nay, anh Thạch B yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn với chị H.

Về con chung: Anh B yêu cầu được trực tiếp nuôi dưỡng, không yêu cầu chị H cấp dưỡng cho con.

Về tài sản chung và nợ chung: Không có nên không yêu cầu Tòa án xem xét, giải quyết.

Tài liệu, chứng cứ anh Ba giao nộp gồm: Bản sao Căn cước công dân của anh B, Giấy chứng nhận kết hôn của anh B với chị H, Giấy khai sinh của cháu Đ; Đơn yêu cầu không hòa giải theo Luật hòa giải, đối thoại tại Tòa án; Đơn yêu cầu Tòa án hỗ trợ gửi bản sao tài liệu, chứng cứ; Đơn xác nhận về cư trú của các đương sự.

- Đối với bị đơn là chị Huỳnh Thị H: Dù được tống đạt hợp lệ Thông báo về việc thụ lý vụ án, tại Thông báo có thể hiện đầy đủ những tình tiết, sự kiện, tài liệu, yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn nhưng chị H không phản đối, không có văn bản trình bày ý kiến của mình. Tòa án đã thông báo mở phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải; triệu tập hợp lệ 02 lần nhưng chị H đều vắng mặt không có lý do, chị H được tống đạt Thông báo kết quả phiên họp trên và Quyết định đưa vụ án ra xét xử. Phiên tòa ngày 18/3/2024, bị đơn H vẫn vắng mặt nên Hội đồng xét xử quyết định hoãn phiên tòa và tiếp tục đưa vụ án ra xét xử theo quy định của pháp luật.

- Tài liệu, chứng cứ Tòa án thu thập được là Biên bản lấy lời khai của cháu Đ; Biên bản xác minh về tình trạng hôn nhân, nguyên nhân phát sinh tranh chấp của các đương sự và sức khỏe, học tập, tình hình phát triển của cháu Đ. Các đương sự không có ý kiến phản đối về tài liệu, chứng cứ do đương sự khác giao nộp và do Tòa án thu thập được.

- Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân huyện Trần Đề tham gia phiên tòa nêu quan điểm:

Tòa án thụ lý vụ án đúng thẩm quyền, xác định chính xác quan hệ pháp luật tranh chấp; thu thập chứng cứ đầy đủ, đúng pháp luật; Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa, nguyên đơn đã tuân thủ đúng quy định của pháp luật tố tụng dân sự; bị đơn không chấp hành triệu tập của Tòa án.

Đề nghị Hội đồng xét xử cho anh B được ly hôn với chị H; giao cho anh B trực tiếp nuôi dưỡng con chung, chị H không phải cấp dưỡng cho con; không xem xét, giải quyết về tài sản và nợ chung do không có yêu cầu; quyết định về nghĩa vụ chịu án phí đối với đương sự theo quy định của pháp luật.

[1] Về tố tụng:

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Anh B yêu cầu ly hôn với chị H và giải quyết quyền nuôi con chung, không yêu cầu giải quyết về tài sản và nợ chung. Quan hệ tranh chấp này được pháp luật điều chỉnh tại Điều 51, Điều 56 của Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 (Sau đây gọi là Luật hôn nhân và gia đình); thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Trần Đề quy định tại Khoản 1 Điều 28, điểm a Khoản 1 Điều 35, điểm a Khoản 1 Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự.

Bị đơn H đã được triệu tập hợp lệ hai lần tham gia phiên tòa, đều vắng mặt không có lý do nên phải chịu hậu quả pháp lý về việc vắng mặt của mình. Tại phiên tòa sơ thẩm, nguyên đơn và Kiểm sát viên yêu cầu Tòa án giải quyết vụ án theo quy định của pháp luật, Hội đồng xét xử căn cứ vào điểm b Khoản 2 Điều 227, Khoản 3 Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự xét xử vụ án vắng mặt bị đơn. [2] Về nội dung giải quyết:

- Căn cứ bản sao Căn cươc công dân, Giấy chứng nhận kết hôn của anh B với chị H, Giấy khai sinh của cháu Đ cũng như việc không phản đối của chị H và kết quả xác minh của Tòa án; đối chiếu với quy định tại điểm c Khoản 1, Khoản 2 Điều 92 của Bộ luật Tố tụng dân sự; Hội đồng xét xử khẳng định lời trình bày của anh B về kết hôn với chị H, được Ủy ban nhân dân xã Đại Ân 2 cấp Giấy chứng nhận kết hôn và vợ chồng có 01 con chung là sự thật. Cho nên, anh B và chị H đang tồn tại quan hệ hôn nhân hợp pháp quy định tại Khoản 1 Điều 9 của Luật hôn nhân và gia đình, làm phát sinh các quyền và nghĩa vụ của vợ, chồng theo quy định của pháp luật; trong đó có nghĩa vụ thương yêu, tôn trọng, quan tâm, chăm sóc, giúp đỡ nhau, cùng nhau chia sẻ, thực hiện công việc gia đình và sống chung với nhau. Tuy nhiên, từ hơn 04 năm nay, dù không có thỏa thuận khác và cũng không vì yêu cầu của nghề nghiệp, công tác, học tập, tham gia các hoạt động kinh tế, xã hội nhưng anh B và chị H không sống chung; không cùng nhau chăm lo cháu Đ. Như vậy, anh B và chị H đã vi phạm nghiêm trọng quyền, nghĩa vụ của vợ chồng quy định tại Điều 19 của Luật hôn nhân và gia đình; vợ chồng không còn thương yêu, tôn trọng nhau, làm cho hôn nhân lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được nên áp dụng các Điều 51, 56 của Luật hôn nhân và gia đình giải quyết cho anh B ly hôn với chị H.

- Thời điểm xét xử vụ án, cháu Đ đã trên 7 tuổi, phát triển bình thường về thể chất, trí tuệ và có nguyện vọng sống cùng cha; chính quyền địa phương không phải hỗ trợ chăm sóc cháu; anh B yêu cầu trực tiếp nuôi dưỡng con chung, không yêu cầu chị H cấp dưỡng cho con.

Xét, việc bày tỏ nguyện vọng của cháu Đ là hoàn toàn tự nguyện; không bị đe dọa, lừa dối, ép buộc; anh B có việc làm ổn định, thu nhập đảm bảo cuộc sống, đã trực tiếp một mình nuôi con từ khi không còn sống chung với chị H và yêu cầu được trực tiếp nuôi dưỡng cháu Đ, chị H cũng không có ý kiến phản đối yêu cầu này. Vì vậy, cần căn cứ Điều 58, 81, 82 và 83 của Luật hôn nhân và gia đình để giao cho anh B tiếp tục nuôi dưỡng con chung; ghi nhận ý chí tự nguyện của anh B, về không yêu cầu chị H cấp dưỡng cho con.

- Nguyên đơn tiếp tục khẳng định không có tài sản chung và nợ chung, không yêu cầu nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét.

[3] Về án phí sơ thẩm: Anh Thạch B chịu 300.000 đồng theo điểm a Khoản 5 Điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội Khóa XIV, Khoản 4 Điều 147 của Bộ luật Tố tụng dân sự.

[4] Toàn bộ quan điểm, đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Trần Đề là có căn cứ pháp lý, có cơ sở thực tiễn như đã nhận định ở trên. Hội đồng xét xử cần chấp nhận đề nghị của đại diện Viện kiểm sát đã nêu.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào Khoản 1 Điều 28, điểm a Khoản 1 Điều 35, điểm a Khoản 1 Điều 39, Khoản 1 và Khoản 2 Điều 143, Khoản 3 Điều 144, Khoản 4 Điều 147, điểm b Khoản 2 Điều 227 và Khoản 3 Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự;

Căn cứ vào Khoản 1 Điều 51, Điều 56, Điều 58, Điều 81, Điều 82 và Điều 83 của Luật hôn nhân và gia đình năm 2014;

Căn cứ vào điểm a Khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội Khóa XIV;

Tuyên xử:

1. Về quan hệ hôn nhân: Chấp nhận cho anh Thạch B được ly hôn với chị Huỳnh Thị H.

2. Về con chung:

Giao cho anh B được trực tiếp nuôi dưỡng con chung là cháu Thạch Thành Đ (Nam), sinh ngày 17/4/2012. Ghi nhận ý chí tự nguyện của anh B, chị H không phải cấp dưỡng cho con. Trong thời gian anh B nuôi con, không ai được quyền ngăn cản sự thăm nom, chăm sóc và giáo dục của cha mẹ đối với con chung.

Vì quyền lợi về mọi mặt của cháu Đ, các đương sự có quyền yêu cầu Tòa án giải quyết thay đổi người trực tiếp nuôi con, nghĩa vụ cấp dưỡng cho con nếu có căn cứ hợp pháp.

3. Về tài sản chung và nợ chung: Nguyên đơn khẳng định không có, không yêu cầu nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét.

4. Án phí Hôn nhân và gia đình sơ thẩm: Anh Thạch B phải chịu 300.000 đồng (Ba trăm ngàn đồng), được trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp là 300.000 đồng, theo Biên lai số 0002217 ngày 23/11/2023 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Trần Đề, anh B đã nộp đủ án phí dân sự sơ thẩm.

5. Anh Thạch B có quyền kháng cáo đối với Bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày Tòa tuyên án; chị Huỳnh Thị H có quyền kháng cáo trong thời hạn nêu trên kể từ ngày nhận được Bản án hoặc Bản án được niêm yết hợp lệ, để yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh Sóc Trăng xét xử theo thủ tục phúc thẩm.

Trường hợp Bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự. Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

30
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con số 38/2024/HNGĐ-ST

Số hiệu:38/2024/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Trần Đề - Sóc Trăng
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 05/04/2024
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: [email protected]
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;