Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con số 36/2022/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN N, TỈNH NINH THUẬN

BẢN ÁN 36/2022/HNGĐ-ST NGÀY 08/06/2022 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON

 Ngày 08/6/2022 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện N, tỉnh Ninh Thuận xét xử công khai sơ thẩm vụ án dân sự thụ lý số 15/2022/TLST-HNGĐ ngày 07/01/2022 về việc “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con” theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 37/2022/QĐXXST-HNGĐ ngày 04/5/2022 và quyết định hoãn phiên tòa số 30/2022/QĐHNGĐ-ST ngày 19/5/2022 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Bà Phạm Thị Hồng N, sinh 1997. (có mặt) Địa chỉ: Khu phố x, thị trấn P, huyện N, tỉnh Ninh Thuận.

2. Bị đơn: Ông Nguyễn Quốc H, sinh 1996. (vắng mặt) Địa chỉ: Thôn T, xã P1, huyện N, tỉnh Ninh Thuận.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại đơn khởi kiện đề ngày 07/01/2022 cũng như tại phiên tòa nguyên đơn bà Phạm Thị Hồng N trình bày:

Bà và ông Nguyễn Quốc H chung sống với nhau tự nguyện từ năm 2016, có đăng ký kết hôn tại UBND xã P1, huyện N ngày 10/6/2019. Sau khi kết hôn vợ chồng sống chung với gia đình chồng tại Thuận Hòa, xã P1, thời gian đầu sống hạnh phúc đến năm 2017 xảy ra mâu thuẫn, cãi vã nhau do ông H ham chơi cờ bạc dẫn đến nợ nần, không lo làm ăn. Nhiều lần khuyên bảo nhưng ông H vẫn không thay đổi, mâu thuẫn thật sư trầm trọng từ tháng 6/2021 bà mang theo con về nhà mẹ ruột sống đến nay, vợ chồng mạnh ai nấy sống, không quan tâm thăm hỏi nhau, sự việc được hai bên gia đình biết và động viên nhưng không thành. Nay tình cảm của bà với ông H không còn, không thể tiếp tục đời sống chung vợ chồng, nên bà yêu cầu Tòa án giải quyết cho bà được ly hôn với ông H.

Về con chung: Vợ chồng bà có một người con chung là cháu Nguyễn Phạm Ngọc Y, sinh 17/02/2019 hiện đang sống với bà. Nay vợ chồng ly hôn bà yêu cầu được tiếp tục nuôi cháu Y, không yêu cầu ông H cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung và nợ chung: Không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Tại biên bản lấy lời khai cũng như phiên hòa giải ngày 11/01/2022 bị đơn ông Nguyễn Quốc H trình bày:

Ông với bà Phạm Thị Hồng N sống với nhau tự nguyện từ năm 2016, có đăng ký kết hôn tại UBND xã P1, huyện N ngày 10/6/2019. Sau khi kết hôn vợ chồng sống chung với gia đình ông tại thôn T, xã P1, thời gian đầu sống hạnh phúc, thời gian sau xảy ra mâu thuẫn, cãi vã, do không hiểu nhau, bất đồng về quan điểm sống. Năm 2019 vợ chồng sinh được 01 con chung là cháu Nguyễn Phạm Ngọc Y. Tháng 6/2021 bà N mang theo con bỏ về nhà mẹ ruột ở thị trấn P sống đến nay, vợ chồng ly thân ông có điện thoại, nhắn tin cho bà N nhưng bà N không trả lời. Sự việc được hai bên gia đình khuyên bảo nhưng không thành. Nay bà N xin ly hôn ông không đồng ý vì tình cảm của ông với bà N vẫn còn.

Về con chung: Vợ chồng có một người con chung là cháu Nguyễn Phạm Ngọc Y, sinh 17/02/2019. Trường hợp Tòa án cho ly hôn, ông đồng ý giao con chung cho bà N nuôi dưỡng.

Về tài sản chung, nợ chung: Không yêu cầu.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện N phát biểu quan điểm giải quyết vụ án: Về tố tụng: Thẩm phán và Hội đồng xét xử, thư ký phiên tòa đã tiến hành đúng quy định của Bộ luật tố tụng dân sự. Tòa án thụ lý, giải quyết vụ án dân sự đúng trình tự, thủ tục. Nguyên đơn đã thực hiện đúng quy định tại các Điều 70, Điều 71, Điều 234 Bộ luật tố tụng dân sự. Đối với bị đơn trong quá trình giải quyết có trình bày ý kiến, có tham gia phiên hòa giải theo quy định của pháp luật, tuy nhiên bị đơn cố tình vắng mặt tại phiên tòa lần thứ 02, không có lý do. Hội đồng xét xử vẫn tiến hành xét xử vắng mặt bị đơn theo quy định tại Điều 227, 228 BLTTDS là có căn cứ.

Về nội dung: Bà Phạm Thị Hồng N và ông Nguyễn Quốc H chung sống với nhau từ năm 2016, có đăng ký kết hôn là hôn nhân hợp pháp, trong quá trình chung sống vợ chồng xảy ra mâu thuẫn, sống ly thân từ tháng 6 năm 2021 đến nay, không quan tâm nhau. Đề nghị HĐXX, chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của nguyên đơn bà Phạm Thị Hồng N. Về con chung: Biên bản lấy lời khai ngày 11/01/2022 ông H đồng ý giao con chung cho bà N trực tiếp nuôi dưỡng. Nên giao cháu Y cho bà N trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục. Ông H không phải cấp dưỡng nuôi con do bà N không yêu cầu. Về tài sản chung và nợ chung: Không yêu cầu nên không xem xét.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ đã được xem xét thẩm tra, kết quả hỏi, tranh tụng tại phiên tòa, trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện các chứng cứ, ý kiến của đương sự, ý kiến của Kiểm sát viên. Hội đồng xét xử sơ thẩm nhận định như sau:

[1] Về thủ tục tố tụng: Bà Phạm Thị Hồng N khởi kiện ra Tòa án nhân dân huyện N xin ly hôn với ông Nguyễn Quốc H trú tại Thuận Hòa, P1, N và yêu cầu giải quyết vấn đề con chung. Vì vậy, quan hệ pháp luật trong vụ án là “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con” theo khoản 1 Điều 28 Bộ luật tố tụng dân sự. Căn cứ vào Điều 35, Điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự Tòa án nhân dân huyện N thụ lý và giải quyết là đúng thẩm quyền.

Đối với bị đơn là ông Nguyễn Quốc H, mặc dù Tòa án đã tống đạt hợp lệ Quyết định đưa vụ án ra xét xử; Quyết định hoãn phiên tòa, nhưng ông H cố tình vắng mặt tại phiên tòa lần thứ 02 không có lý do. Căn cứ vào điểm b khoản 2 Điều 227 Bộ luật tố tụng dân sự, HĐXX vẫn tiến hành xét xử vắng mặt ông H theo quy định của pháp luật.

[2] Nội dung khởi kiện: Về quan hệ hôn nhân: Bà Phạm Thị Hồng N và ông Nguyễn Quốc H chung sống với nhau từ năm 2016, có đăng ký kết hôn tại UBND xã P1, huyện N ngày 10/6/2019 trên cơ sở tự nguyện, đây là hôn nhân hợp pháp. Tuy nhiên trong thời gian chung sống, vợ chồng thường xảy ra mâu thuẫn, cãi vã do không hiểu nhau, bất đồng về quan điểm sống. Vợ chồng đã sống ly thân từ tháng 6 năm 2021 đến nay không còn thương yêu, chăm sóc, giúp đỡ nhau, mâu thuẫn vợ chồng được hai bên gia đình biết và khuyên bảo nhưng không thành. Mâu thuẫn như trên đều được ông H thừa nhận, đây là những tình tiết không phải chứng minh. Vì vậy HĐXX xét thấy, hôn nhân vợ chồng bà N, ông H đã lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Nên yêu cầu khởi kiện của bà N đề nghị được ly hôn với ông H là có căn cứ, có cơ sở chấp nhận.

Về con chung: Bà Phạm Thị Hồng N và ông Nguyễn Quốc H có một người con chung là cháu Nguyễn Phạm Ngọc Y, sinh 17/02/2019 hiện đang sống với bà N. Trong quá trình giải quyết ông H có trình bày về con chung, ông đồng ý giao con chung cho bà N tực tiếp nuôi dưỡng. Vì vậy, cần giao cháu Y cho bà N trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục. Ông H không phải cấp dưỡng nuôi con chung do bà N không yêu cầu.

Về tài sản chung và nợ chung: Không yêu cầu giải quyết, nên không xem xét.

Cần chấp nhận đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện N tại phiên tòa, chấp nhận yêu cầu ly hôn và nuôi con chung của bà N.

[3] Về án Phí: Bà N phải chịu án phí ly hôn sơ thẩm theo quy định tại điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào các Điều 28, 35, 39, 147, điểm b khoản 2 Điều 227 Bộ luật Tố tụng dân sự; Điều 56, Điều 81, 82, 83, 84 Luật hôn nhân và gia đình; Điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.

Tuyên xử:

1/. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Phạm Thị Hồng N. Bà Phạm Thị Hồng N được ly hôn với ông Nguyễn Quốc H.

2/. Về con chung: Giao cháu Nguyễn Phạm Ngọc Y, sinh 17/02/2019 cho bà Phạm Thị Hồng N trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục. Ông H không phải cấp dưỡng nuôi con chung do bà N không yêu cầu.

Sau khi ly hôn, người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở.

3/. Về án phí dân sự sơ thẩm: Bà Phạm Thị Hồng N phải chịu 300.000đ (Ba trăm ngàn đồng) án phí dân sự sơ thẩm về ly hôn, nhưng được khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp là 300.000đ (Ba trăm ngàn đồng) theo biên lai thu số 0002221, ngày 07/01/2022 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện N. Bà N đã nộp đủ án phí DSST.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại điều 2 luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án và người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7 và 9 của Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại điều 30 của Luật Thi hành án dân sự.

4/. Về quyền kháng cáo: Nguyên đơn có quyền làm đơn kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án (08/6/2022), bị đơn vắng mặt tại phiên tòa thời hạn kháng cáo tính từ ngày nhận được bản án hoặc được tống đạt hợp lệ.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

7
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con số 36/2022/HNGĐ-ST

Số hiệu:36/2022/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Ninh Phước - Ninh Thuận
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 08/06/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;