Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con số 35/2022/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ THANH HÓA, TỈNH THANH HÓA

BẢN ÁN 35/2022/HNGĐ-ST NGÀY 24/03/2022 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON

Ngày 24 tháng 3 năm 2022, tại trụ sở Toà án nhân dân Thành phố Thanh Hoá xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 55/2021/TLST- HNGĐ ngày 10 tháng 11 năm 2021 về việc “Ly hôn, tranh chấp nuôi con khi ly hôn”, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 51/2022/QĐXX - ST ngày 08 tháng 02 năm 2022 giữa các đương sự :

Nguyên đơn: Chị Dương Thị S - Sinh năm 1984 “ Có mặt”

Bị đơn: Anh Dương Văn T - Sinh năm 1981 “ Vắng mặt”

Cùng địa chỉ: Phố 4, phường T, thành phố T, tỉnh Thanh Hóa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện và các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án, nguyên đơn chị Dương Thị S trình bày:

Về hôn nhân: Chị và anh Dương Văn T tổ chức lễ cưới trên cơ sở tự nguyện theo phong tục tập quán Việt Nam vào năm 2003 nhưng đến ngày 09 tháng 11 năm 2009 anh chị mới đăng ký kết hôn tại UBND xã Thiệu Dương, huyện Thiệu Hóa, tỉnh Thanh Hóa; nay là phường Thiệu Dương, thành phố Thanh Hóa, tỉnh Thanh Hóa. Sau khi kết hôn cuộc sống vợ chồng hòa thuận, hạnh phúc đến năm 2020 thì vợ chồng phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân là do bất đồng quan điểm sống, anh T hay rượu chè, sống không có trách nhiệm với vợ con, thường xuyên đập phá đồ đạc trong gia đình mỗi khi say rượu, mâu thuẫn của vợ chồng đã được bạn bè và hai bên gia đình khuyên giải nhưng không có kết quả. Nay chị S xét thấy tình cảm vợ chồng không còn, mục đích hôn nhân không đạt được nên chị đề nghị Tòa giải quyết cho chị được ly hôn anh Dương Văn T.

Về con: Vợ chồng có 2 con chung là cháu Dương Văn Đ, sinh ngày 17/6/2004 và cháu Dương Văn Khôi N sinh ngày 27/11/2014. Chị S đề nghị Tòa án giải quyết cho chị được trực tiếp nuôi dưỡng cháu Đ và cháu N, yêu cầu anh T cấp dưỡng nuôi cháu Đ mỗi tháng 1.000.000đ; cấp dưỡng nuôi cháu N mỗi tháng 2.000.000đ, thời gian cấp dưỡng tính từ ngày Tòa án quyết định cho đến khi các cháu thành niên. Tại phiên tòa chị S đề nghị Tòa án giải quyết buộc anh T cấp dưỡng nuôi con mỗi cháu mỗi tháng 1.000.000đ; (hai cháu là 2.000.000đ/ tháng), thời gian cấp dưỡng tính từ ngày Tòa án quyết định cho đến khi các cháu thành niên.

Về tài sản công nợ chung: Chị S không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Quá trình giải quyết vụ án, Toà án đã tống đạt các văn bản tố tụng cho bị đơn là anh Dương Văn T theo quy định của pháp luật nhưng anh Thiện không đến Toà án để tự khai cũng như tham gia phiên hoà giải mặc dù đã nhận được các thông báo hợp lệ.

Toà án tiến hành thu thập chứng cứ. Tại biên bản thu thập chứng cứ do địa phương cung cấp thể hiện: Quá trình chị Sáu và anh Thiện sinh sống tại địa phương có xảy ra mâu thuẫn, và nguyên nhân mâu thuẫn như thế nào địa phương không nắm được, vì anh chị không thể hiện mâu thuẫn ra bên ngoài. Nay chị S có đơn xin ly hôn, đề nghị Tòa án căn cứ pháp luật để giải quyết.

Anh chị có hai con chung, nếu anh chị ly hôn, việc giao con cho ai nuôi dưỡng và cấp dưỡng như thế nào đề nghị Tòa án căn cứ pháp luật giải quyết.

Về tài sản và công nợ: Địa phương không nắm được anh chị có tài sản và công nợ gì nên không cung cấp cho Tòa án được.

Đại diện VKS phát biểu quan điểm giải quyết vụ án. Việc tuân theo pháp luật tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án của Thẩm phán và Hội đồng xét xử, việc chấp hành pháp luật của nguyên đơn, kể từ khi toà án thụ lý vụ án cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án đã tuân thủ đúng quy định.

Về nội dung: Đại diện VKS đề nghị Tòa án giải quyết: Xử cho chị Dương Thị S được ly hôn anh Dương Văn T; Giao cháu Đ và cháu cho chị S trực tiếp nuôi dưỡng, anh T có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con mỗi cháu 1.000.000đ/tháng.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về tố tụng: Tại phiên tòa hôm nay mặc dù Tòa án đã triệu tập hợp lệ anh Dương Văn T lần thứ hai nhưng anh Thiện vẫn vắng mặt không có lý do. Chị S đề nghị Tòa án tiến hành xét xử theo quy định. Hội đồng xét xử căn cứ điểm b khoản 2 Điều 227 của Bộ luật Tố tụng Dân sự để giải quyết vắng mặt anh Thiện là phù hợp quy định của pháp luật.

Tại phiên tòa chị S có thay đổi một phần nội dung khởi kiện về mức cấp dưỡng. Yêu cầu của chị Sáu trên cơ sở tự nguyện, phù hợp quy định tại khoản 2 Điều 71 của Bộ luật Tố tụng Dân sự.

[2] Về hôn nhân: Chị Dương Thị S và anh Dương Văn T kết hôn với nhau cơ sở tự nguyện, có đăng ký kết hôn là hôn nhân hợp pháp. Quá trình anh chị chung sống hạnh phúc đến năm 2020 phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn là do bất đồng quan điểm sống, tính cách không hòa hợp, trong cuộc sống vợ chồng không có tiếng nói chung. Quá trình giải quyết vụ án, chị S xác định tình cảm vợ chồng không còn, chị S tha thiết xin được ly hôn.

Xét mâu thuẫn giữa chị S và anh T đã đến mức trầm trọng, anh T không đến Tòa án để trình bày về quan hệ hôn nhân giữa anh và chị S để Tòa án tiến hành hòa giải, điều đó chứng tỏ anh T cũng không có thiện chí để đoàn tụ. Do đó nếu buộc anh chị về đoàn tụ thì cuộc sống vợ chồng cũng khó có thể cải thiện được. Hội đồng xét xử căn cứ khoản 1 Điều 56 luật HN&GĐ xử cho chị S được ly hôn anh Th là phù hợp pháp luật.

[3] Về con: Vợ chồng có 2 con chung là cháu Dương Văn Đ, sinh ngày 17/6/2004 và cháu Dương Văn Khôi N sinh ngày 27/11/2014. Chị S đề nghị Tòa án giải quyết cho chị được trực tiếp nuôi dưỡng cháu Đ và cháu N.

HĐXX xét thấy: Trong suốt quá trình giải quyết vụ án, anh T không đến Tòa án để giải quyết và không thể hiện việc anh T có nguyện vọng nuôi con hay không, trong khi cả cháu Đ và cháu N đều có nguyện vọng được ở với mẹ. Do đó để đảm bảo cuộc sống cho con chưa thành niên, cần giao cháu Đ và cháu N cho chị Sáu trực tiếp nuôi dưỡng là phù hợp.

Về cấp dưỡng: Tại phiên tòa, chị S yêu cầu anh T cấp dưỡng nuôi con mỗi cháu, mỗi tháng 1.000.000đ ( một triệu đồng)/tháng; hai cháu là 2.000.000đ ( Hai triệu đồng)/tháng, thời gian cấp dưỡng tính từ ngày Tòa án quyết định cho đến khi các cháu thành niên.

Tại khoản 2 Điều 82 của Luật Hôn nhân và Gia đình quy định: Cha, mẹ không trực tiếp nuôi con có nghĩa vụ cấp dưỡng cho con, như vậy anh T không trực tiếp nuôi con, do đó cần buộc anh T có nghĩa vụ cấp dưỡng cho con mỗi tháng mỗi cháu 1.000.000đ theo yêu cầu của chị Sáu là phù hợp.

[4] Về tài sản và nợ chung: Các đương sự không yêu cầu nên HĐXX không xem xét giải quyết.

[5] Về án phí: Căn cứ khoản 4 Điều 147 của Bộ luật Tố tụng Dân sự; điểm a khoản 5; điểm a khoản 6 Điều 27 Nghị Quyết số 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về án phí lệ phí Tòa án, Chị S phải chịu án phí dân sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật, anh T phải chịu án phí cấp dưỡng theo quy định.

Vì các lẽ trên

QUYẾT ĐỊNH

Áp dụng: Khoản 1 Điều 56; Điều 57, Điều 81, Điều 82, Điều 83 Luật Hôn nhân và gia đình; khoản 2 Điều 71; điểm b khoản 2 Điều 227; khoản 4 Điều 147, Điều 271 và Điều 273 Bộ luật Tố tụng Dân sự; điểm a khoản 5; điểm a khoản 6 Điều 27 Nghị Quyết số 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về án phí lệ phí Tòa án;

Về hôn nhân: Xử cho chị Dương Thị S được ly hôn anh Dương Văn T.

Về con: Công nhận cháu Dương Văn Đ, sinh ngày 17/6/2004 và cháu Dương Văn Khôi N sinh ngày 27/11/2014 là con chung của chị S và anh T. Giao cháu Dương Văn Đ và cháu Dương Văn Khôi N cho chị S trực tiếp nuôi dưỡng;

Anh T có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con mỗi cháu 1.000.000đ (Một triệu đồng)/tháng; Hai cháu là 2.000.000đ ( hai triệu đồng)/tháng; Thời gian cấp dưỡng tính từ tháng 3 năm 2022 cho đến khi cháu Đ và cháu N thành niên.

Anh Dương Văn T có quyền thăm nom con chung không ai được cản trở.

Về tài sản và công nợ: Các đương sự không yêu cầu nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

Án phí: Chị Dương Thị S phải nộp 300.000đ (Ba trăm ngàn đồng) án phí dân sự sơ thẩm, nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí chị S đã nộp theo biên lai số AA/2021/0001370 ngày 09/11/2021 của Chi cục Thi hành án dân sự Thành phố Thanh Hóa (chị S đã nộp đủ án phí).

Anh Dương Văn T phải nộp 300.000đ (Ba trăm ngàn đồng) án phí cấp dưỡng.

Chị Dương Thị S có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án; anh Dương Văn T có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc ngày niêm yết bản án./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

157
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con số 35/2022/HNGĐ-ST

Số hiệu:35/2022/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Thanh Hóa - Thanh Hoá
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 24/03/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;