TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN BẮC QUANG, TỈNH HÀ GIANG
BẢN ÁN 34/2021/HNGĐ-ST NGÀY 27/09/2021 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON
Ngày 27 tháng 9 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyê n Bắc Quang, tỉnh Hà Giang xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 82/2020/TLST-HNGĐ ngày 28 tháng 5 năm 2021 về “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 29/2021/QĐXXST-HNGĐ ngày 27 tháng 8 năm 2021, Quyết định hoãn phiên tòa số: 25/2021/QĐST-HNGĐ ngày 13/9/2021 giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: Chị Đặng Thị S, sinh năm 1985; nơi cư trú: thôn L, xã Đ, huyện B, tỉnh Hà Giang; (có mặt)
- Bị đơn: Anh Chương Hoàng Ph, sinh năm 1986; nơi cư trú: thôn L, xã Đ, huyện B, tỉnh Hà Giang; (có mặt)
NỘI DUNG VỤ ÁN
Tại đơn khởi kiện đề ngày 25/5/2021, trong quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa nguyên đơn là chị Đặng Thị S trình bày: Chị và anh Chương Hoàng Ph tự nguyện tìm hiểu và chung sống với nhau từ năm 2003, đến ngày 11/11/2010 anh chị mới tự nguyện đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã Đ, huyện B theo quy định của pháp luật. Quá trình chung sống vợ chồng hòa thuận, 04 năm trở lại đây phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân là do anh Ph thường xuyên rượu chè, không tu chí làm ăn, hay đánh đập chị S. Mâu thuẫn vợ chồng trầm trọng và hiện vợ chồng anh chị đã quyết định sống ly thân, không còn quan tâm đến nhau. Mâu thuẫn vợ chồng đã được gia đình hai bên khuyên bảo và hòa giải nhưng không khắc phục được. Chị S xét thấy không còn tình cảm với anh Ph, cuộc sống chung không có hạnh phúc nên đề nghị Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn với anh Chương Hoàng Ph.
Về con chung: Vợ chồng có 02 con chung là cháu Chương Thị Ngọc Q, sinh ngày 15/8/2004 và cháu Chương Thanh Nh, sinh ngày 02/12/2009. Khi ly hôn tôi có nguyện vọng được trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục cả hai cháu cho đến khi các cháu đủ 18 tuổi. Không yêu cầu anh Ph phải cấp dưỡng nuôi con.
Về tài sản chung và công nợ chung: chị S không yêu cầu Tòa án đề cập giải quyết.
Trong quá trình giải quyết vụ án, tại các bản tự khai ngày 01/6/2021 bị đơn là anh Chương Hoàng Ph trình bày: anh và chị Đặng Thị S tự nguyện tìm hiểu và chung sống với nhau từ năm 2003, đến ngày 11/11/2010 anh chị mới tự nguyện đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã Đ, huyện B theo quy định của pháp luật. Quá trình chung sống vợ chồng hòa thuận, tuy nhiên mâu thuẫn phát sinh nhiều năm nay. Nguyên nhân là do vợ chồng không thống nhất trong việc làm ăn và công việc gia đình, chồng nói vợ không nghe, làm ăn lại thua lỗ dẫn đến vợ chồng cãi vã nhau, mâu thuẫn vợ chồng trầm trọng từ năm 2019. Gia đình hai bên đã khuyên bảo và hòa giải 01 lần nhưng không khắc phục được mâu thuẫn vợ chồng. Hiện anh chị đã quyết định sống ly thân, không còn quan tâm đến nhau. Tuy nhiên bản thân anh Ph vẫn còn tình cảm với vợ, và thương các con, nên không nhất trí ly hôn với chị Đặng Thị S.
Về con chung: anh chị có 02 con chung là cháu Chương Thị Ngọc Q, sinh ngày 15/8/2004 và cháu Chương Thanh Nh, sinh ngày 02/12/2009. Khi ly hôn anh Ph có nguyện vọng được trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục cả hai cháu cho đến khi các cháu đủ 18 tuổi, không yêu cầu chị S phải cấp dưỡng nuôi con. Về tài sản chung và công nợ chung: vì không nhất trí ly hôn nên anh Ph không yêu cầu Tòa án đề cập giải quyết về tài sản chung và công nợ chung.
Ngày 01/6/2021 Tòa án nhân dân huyện Bắc Quang đã tiến hành hỏi ý kiến của các cháu Chương Thị Ngọc Q và Chương Thanh Nh là các con chung của chị Đặng Thị S và anh Chương Hoàng Ph, các cháu đều có nguyện vọng nếu bố mẹ ly hôn được ở với mẹ vì các cháu thích ở với mẹ hơn.
Tại các biên bản xác minh ngày 13/8/2021 của Toà án nhân dân huyện Bắc Quang với mẹ đẻ chị Đặng Thị S, trưởng thôn L, xã Đ phản ánh về tình trạng hôn nhân và điều kiện nuôi con của chị Đặng Thị S và anh Chương Hoàng Ph như sau: chị Đặng Thị S và anh Chương Hoàng Ph tự nguyện về chung sống với nhau từ năm 2003 nhưng đến năm 2010 anh chị mới đăng ký kết hôn tại UBND xã Đ theo quy định. Quá trình chung sống vợ chồng anh chị có phát sinh mâu thuẫn được 02 năm nay, nguyên nhân là do anh Ph hay rượu chè, không chịu tu chí làm ăn dẫn đến vợ chồng hay cãi nhau, mâu thuẫn vợ chồng đã được gia đình khuyên bảo nhưng không khắc phục được. Hiện vợ chồng anh chị đã sống ly thân. Về con chung, quá trình chung sống anh chị có 02 con chung là cháu Chương Thị Ngọc Q sinh ngày 15/8/2004 và cháu Chương Thanh Nh sinh ngày 02/12/2009. Về điều kiện nuôi con, chị S có điều kiện nuôi con tốt hơn anh Ph vì chị S chịu khó làm ăn hơn anh Ph và được nhờ sự trợ giúp của gia đình nhà ngoại, còn anh Ph đi ở rể lại không chịu khó làm ăn. Chị S và anh Ph đều làm nông nghiệp, không rõ mức thu nhập trung bình.
Tại phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải, các đương sự đều không yêu cầu Tòa án giải quyết về chia tài sản chung và công nợ chung. Tuy nhiên các đương sự chưa thống nhất được các nội dung sau: về quan hệ hôn nhân, chị Đặng Thị S xin ly hôn, anh Chương Hoàng Ph không nhất trí, về việc nuôi con: Chị S có nguyện vọng được trực tiếp nuôi dưỡng cả hai con chung cho đến khi các cháu đủ 18 tuổi, không yêu cầu anh Ph cấp dưỡng nuôi con. Anh Ph có nguyện vọng được trực tiếp nuôi dưỡng cháu Chương Thanh Nh cho đến khi các cháu đủ 18 tuổi, để chị S trực tiếp nuôi dưỡng cháu Chương Thị Ngọc Q cho đến khi cháu Quy đủ 18 tuổi, không ai phải cấp dưỡng nuôi con.
Về án phí ly hôn: tại phiên tòa chị S xin được miễn toàn bộ án phí sơ thẩm hôn nhân gia đình theo quy định của pháp luật.
Phát biểu của Kiểm sát viên tại phiên toà: Quá trình giải quyết vụ án kể từ khi thụ lý cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án, Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên toà đã thực hiện đúng quy định của pháp luật; nguyên đơn, bị đơn đã thực hiện đúng quyền và nghĩa vụ theo quy định của pháp luật; yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn là có căn cứ, đề nghị Hội đồng xét xử cho chị Đặng Thị S được ly hôn anh Chương Hoàng Ph.
Việc nuôi con: giao cháu Chương Thị Ngọc Q, sinh ngày 15/8/2004 và cháu Chương Thanh Nh, sinh ngày 02/12/2009, cho chị Đặng Thị S trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục cho đến khi các cháu đủ 18 tuổi, anh Chương Hoàng Ph không phải cấp dưỡng nuôi con.
Về án phí: nguyên đơn là chị Đặng Thị S được miễn án phí dân sự sơ thẩm ly hôn theo luật định.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về tố tụng:
Về thẩm quyền: Nguyên đơn là chị Đặng Thị S có đơn khởi kiện “Ly hôn, tranh chấp nuôi con” với bị đơn là anh Chương Hoàng Ph, anh Chương Hoàng Ph có nơi cư trú tại thôn L, xã Đ, huyện B, theo quy định tại khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35 và điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự nên vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Toà án nhân dân huyện Bắc Quang, tỉnh Hà Giang.
[2] Về nội dung:
[2.1] Về quan hệ hôn nhân: Quan hệ hôn nhân giữa chị Đặng Thị S và anh Chương Hoàng Ph xác lập trên cơ sở tự nguyện, có đăng ký kết hôn là hôn nhân hợp pháp. Quá trình chung sống, anh chị có thời gian đầu chung sống với nhau hạnh phúc. Mâu thuẫn vợ chồng phát sinh khoảng 02 năm nay, nguyên nhân do anh Ph hay uống rượu, không chịu tu chí làm ăn dẫn đến vợ chồng cãi vã nhau, mâu thuẫn vợ chồng đã được gia đình khuyên bảo nhưng không khắc phục được. Mâu thuẫn vợ chồng trầm trọng nên hiện nay anh chị đã sống ly thân, không còn quan tâm đến nhau. Xét thấy hôn nhân đã lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được. Do đó, chị Đặng Thị S có yêu cầu xin ly hôn anh Chương Hoàng Ph, căn cứ vào khoản 1 Điều 56 của Luật hôn nhân gia đình năm 2014, Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, xử cho chị Đặng Thị S được ly hôn anh Chương Hoàng Ph.
[2.2] Về việc nuôi con: Hội đồng xét xử thấy rằng, quá trình chung sống anh chị có 02 con chung là Chương Thị Ngọc Q, sinh ngày 15/8/2004 và cháu Chương Thanh Nh, sinh ngày 02/12/2009. Chị S có nguyện vọng được trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục cả hai cháu cho đến khi các cháu đủ 18 tuổi, không yêu cầu anh Ph phải cấp dưỡng nuôi con. Anh Ph không nhất trí với ý kiến, nguyện vọng của chị S và xin được trực tiếp nuôi dưỡng cháu Nh, không yêu cầu chị S cấp dưỡng nuôi con. Hội đồng xét xử thấy rằng, cháu Chương Thị Ngọc Q và cháu Chương Thanh Nh đều có nguyện vọng được ở với mẹ, theo xác minh với người trong gia đình và trưởng thôn nơi anh chị sinh sống chị S có điều kiện nuôi con tốt hơn anh Ph do chịu khó làm ăn hơn và lại có sự trợ giúp của gia đình bên ngoại. Do đó, để đảm bảo quyền lợi về mọi mặt của con chung, căn cứ vào Điều 81 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014, Hội đồng xét xử xét thấy cần giao các cháu Chương Thị Ngọc Q và Chương Thanh Nh cho chị Đặng Thị S trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục cho đến khi các cháu đủ 18 tuổi. Chị Đặng Thị S không yêu cầu cấp dưỡng nuôi con chung nên Hội đồng xét xử không xem xét đến.
[2.3] Về chia tài sản chung: các đương sự không yêu cầu giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét đến.
[2.4] Về án phí: nguyên đơn chị Đặng Thị S là người dân tộc thiểu số, sinh sống ở vùng có điều kiện kinh tế xã hội đặc biệt khó khăn nên được miễn án phí dân sự sơ thẩm ly hôn theo luật định.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào khoản 1 Điều 56, Điều 57, Điều 58, Điều 81, Điều 82, Điều 83 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014; khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35 và điểm a khoản 1 Điều 39, khoản 4 Điều 147, Điều 271, Điều 273 của Bộ luật Tố tụng dân sự; điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí tòa án;
Xử:
1. Về quan hệ hôn nhân: Xử cho chị Đặng Thị S được ly hôn anh Chương Hoàng Ph.
2. Về việc nuôi con: Xử giao các cháu Chương Thị Ngọc Q, sinh ngày 15/8/2004 và cháu Chương Thanh Nh, sinh ngày 02/12/2009 cho chị Đặng Thị S trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục cho đến khi các cháu đủ 18 tuổi; anh Chương Hoàng Ph không phải cấp dưỡng nuôi con.
Người không trực tiếp nuôi con có quyền đi lại thăm nom con, không ai được cản trở người đó thực hiện quyền này. Vì quyền lợi của con chung, chị S, anh Ph có quyền yêu cầu thay đổi người trực tiếp nuôi con và mức cấp dưỡng nuôi con theo quy định của pháp luật.
3. Về án phí: Chị Đặng Thị S được miễn án phí dân sự sơ thẩm ly hôn theo quy định của pháp luật.
4. Về quyền kháng cáo: Nguyên đơn, bị đơn có mặt có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.
Trường hợp quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6,7, 7a và 9 Luật thi hành án dân sự, thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.
Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con số 34/2021/HNGĐ-ST
Số hiệu: | 34/2021/HNGĐ-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Bắc Quang - Hà Giang |
Lĩnh vực: | Hôn Nhân Gia Đình |
Ngày ban hành: | 27/09/2021 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về