Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con số 32/2022/HNGĐ-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN THUỶ NGUYÊN, THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG

BẢN ÁN 32/2022/HNGĐ-ST NGÀY 16/02/2022 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON

Ngày 16 tháng 02 năm 2022, tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Thuỷ Nguyên xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số 458/2021/TLST-HNGĐ ngày 01 tháng 12 năm 2021 về ly hôn, tranh chấp về nuôi con theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 02/2022/QĐXXST-HNGĐ ngày 04 tháng 01 năm 2022 và Quyết định hoãn phiên tòa số 12/2022/QĐST-HNGĐ ngày 20 tháng 01 năm 2022, giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Anh Nguyễn Ngọc A; nơi cư trú: Thôn 5, xã T, huyện T1, thành phố Hải Phòng. Có mặt.

- Bị đơn: Chị Đào Thị T; nơi cư trú: Thôn 5, xã T, huyện T1, thành phố Hải Phòng.

Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Anh Nguyễn Ngọc A là nguyên đơn, khởi kiện với nội dung: Anh và chị Đào Thị T kết hôn trên cơ sở tự nguyện, được hai bên gia đình tổ chức lễ cưới theo phong tục và có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã T, huyện T1, thành phố Hải Phòng vào ngày 19 tháng 3 năm 2008. Sau lễ cưới, vợ chồng vể chung sống cùng nhau tại thôn 5, xã T, huyện T1, thành phố Hải Phòng. Quá trình chung sống vợ chồng hòa thuận và có hai con chung, đến tháng 9 năm 2021 thì phát sinh mâu thuẫn trầm trọng. Nguyên nhân mâu thuẫn là do vợ chồng không hòa hợp, bất đồng trong sinh hoạt. Vợ chồng không tìm được tiếng nói chung trong việc quan tâm, xây dựng gia đình, chăm sóc và nuôi dưỡng con chung. Anh và Chị T đã nhiều lần xảy ra cãi mắng xúc phạm nhau. Chị T đã về nhà bố mẹ đẻ ở, anh có tìm gọi nhưng Chị T không về đoàn tụ, vợ chồng sống ly thân từ đó cho đến nay, không ai còn quan tâm đến ai. Nay, anh Nguyễn Ngọc A nhận thấy quan hệ hôn nhân giữa anh và Chị T không còn khả năng hàn gắn nên đề nghị được ly hôn với chị Đào Thị T. Anh và Chị T có hai con chung là Nguyễn Nhật N, sinh ngày 22 tháng 9 năm 2008 và Nguyễn Thành C, sinh ngày 13 tháng 7 năm 2011. Khi ly hôn, Anh Ngọc A đề nghị được trực tiếp nuôi dưỡng các con chung. Việc cấp dưỡng nuôi con do anh và Chị T tự thỏa thuận, không yêu cầu Tòa án giải quyết. Anh và Chị T không có tài sản chung nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Chị Đào Thị T là bị đơn, đã được Tòa án tống đạt hợp lệ thông báo thụ lý vụ án và các văn bản tố tụng khác, song đến ngày mở phiên tòa Chị T vẫn không có văn bản trình bày ý kiến về quan hệ hôn nhân, con chung và tài sản chung.

Tại phiên toà, Kiểm sát viên phát biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật tố tụng như sau: Về thẩm quyền giải quyết vụ án, Tòa án nhân dân huyện Thủy Nguyên đã tuân theo đúng quy định của pháp luật quy định tại Điều 28, Điều 35, Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự. Trong quá trình giải quyết vụ án, Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký đã tiến hành giải quyết vụ án theo đúng trình tự thủ tục do pháp luật quy định. Nguyên đơn thực hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ theo quy định tại Điều 70, Điều 71 và Điều 227 của Bộ luật Tố tụng dân sự. Bị đơn không thực hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ theo quy định tại Điều 70, Điều 72 và Điều 227 của Bộ luật tố tụng dân sự. Về việc giải quyết vụ án: Kiểm sát viên đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng Điều 28, Điều 35, Điều 39, Điều 147, Điều 227, Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự; Điều 51; khoản 1 Điều 56; Điều 81; Điều 82; Điều 83 của Luật Hôn nhân và gia đình chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, cho anh Nguyễn Ngọc A được ly hôn chị Đào Thị T; đề nghị giao các con chung tên Nguyễn Nhật N và Nguyễn Thành C cho anh Nguyễn Ngọc A trực tiếp nuôi dưỡng. Người không trực tiếp nuôi con có quyền và nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở. Nguyên đơn nộp án phí ly hôn sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Căn cứ vào tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án đã được xem xét tại phiên tòa, kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về sự vắng mặt của đương sự Bị đơn là chị Đào Thị T đã được Tòa án triệu tập hợp lệ đến phiên tòa lần thứ hai nhưng vắng mặt không có lý do. Căn cứ khoản 2 Điều 227, khoản 3 Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt bị đơn.

[2] Về yêu cầu của anh Nguyễn Ngọc A ly hôn với chị Đào Thị T Anh Nguyễn Ngọc A và chị Đào Thị T kết hôn trên cơ sở tự nguyện, đủ điều kiện kết hôn và có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã T, huyện T1, thành phố Hải Phòng. Do đó, hôn nhân giữa Anh Ngọc A và Chị T là hôn nhân hợp pháp. Tài liệu xác minh tại địa phương và tại gia đình chị Đào Thị T thống nhất thể hiện mâu thuẫn vợ chồng giữa Anh Ngọc A và Chị T là có tồn tại và đã trầm trọng từ tháng 9 năm 2021. Nguyên nhân là do vợ chồng không tìm được tiếng nói chung trong đời sống, thiếu quan tâm chăm sóc và chia sẻ cùng nhau về kinh tế. Cuộc sống chung vợ chồng xảy ra xung đột nặng nề, cãi mắng xúc phạm lẫn nhau. Anh Ngọc A và Chị T đã sống ly thân nhau từ tháng 9 năm 2021 cho đến nay, không còn ai quan tâm đến ai. Quá trình giải quyết vụ án, Tòa án đã nhiều lần triệu tập và hòa giải nhưng chị Đào Thị T đều vắng mặt, thể hiện không mong muốn hàn gắn quan hệ hôn nhân với anh Nguyễn Ngọc A. Tại các buổi hòa giải và tại phiên tòa, Anh Ngọc A giữ nguyên đề nghị ly hôn với chị Đào Thị T do nhận thấy tình cảm vợ chồng không còn khả năng đoàn tụ. Từ những căn cứ nêu trên cho thấy mâu thuẫn vợ chồng đã trầm trọng, mục đích hôn nhân không đạt được và đời sống chung không thể tiếp tục kéo dài. Do vậy, Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của Anh Ngọc A xin ly hôn Chị T.

[3] Về người trực tiếp nuôi con khi ly hôn và nghĩa vụ cấp dưỡng cho con Anh Nguyễn Ngọc A và chị Đào Thị T có hai con chung tên Nguyễn Nhật N, sinh ngày 22 tháng 9 năm 2008 và Nguyễn Thành C, sinh ngày 13 tháng 7 năm 2011. Khi ly hôn, Anh Ngọc A đề nghị được trực tiếp nuôi cả hai con chung. Hội đồng xét xử xem xét các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án và nhận định như sau: Hiện nay, Anh Ngọc A là người đang trực tiếp nuôi dưỡng các con chung. Việc nuôi con đã ổn định, các con được học tập, phát triển và đều có nguyện vọng tiếp tục ở cùng với anh Nguyễn Ngọc A. Anh Ngọc A có công việc và thu nhập để thực hiện việc nuôi con. Mặt khác, chị Đào Thị T không có văn bản trình bày quan điểm về người trực tiếp nuôi dưỡng con chung trong trường hợp ly hôn. Do đó, căn cứ vào quyền lợi mọi mặt của con, điều kiện thực hiện việc nuôi con của đương sự và quy định của pháp luật, Hội đồng xét xử xét giao cho anh Nguyễn Ngọc A tiếp tục nuôi dưỡng các con chung là phù hợp với quy định của Luật Hôn nhân và gia đình.

Cấp dưỡng nuôi con là nghĩa vụ của người không trực tiếp nuôi con. Anh Nguyễn Ngọc A không đề nghị Tòa án giải quyết về việc cấp dưỡng nuôi con nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[4] Về tài sản chung, anh Nguyễn Ngọc A khai vợ chồng không có tài sản chung và không đề nghị Tòa án giải quyết. Mặt khác không có lời khai của bị đơn là chị Đào Thị T về tài sản chung. Do đó, Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết về tài sản chung trong vụ án này.

[5] Về án phí, anh Nguyễn Ngọc A phải chịu án phí sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ Điều 28, Điều 35, Điều 39, Điều 147, Điều 227, Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự; Điều 51; khoản 1 Điều 56; Điều 81; Điều 82; Điều 83 của Luật Hôn nhân và gia đình; Nghị quyết số 326/2016/ UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án, Xử: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của anh Nguyễn Ngọc A:

1. Về quan hệ hôn nhân: Cho anh Nguyễn Ngọc A được ly hôn chị Đào Thị T.

2. Về con chung: Giao cho anh Nguyễn Ngọc A trực tiếp nuôi dưỡng các con chung là Nguyễn Nhật N, sinh ngày 22 tháng 9 năm 2008 và Nguyễn Thành C, sinh ngày 13 tháng 7 năm 2011 cho đến khi các con chung thành niên và có khả năng lao động, trừ trường hợp có sự thay đổi khác theo quy định của pháp luật. Người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở.

Về nghĩa vụ cấp dưỡng cho con sau khi ly hôn: Các đương sự tạm thời không yêu cầu người không trực tiếp nuôi con cấp dưỡng cho con.

3. Về án phí: Anh Nguyễn Ngọc A phải nộp 300.000 đồng án phí ly hôn sơ thẩm. Đối trừ với số tiền tạm ứng án phí đã nộp (ghi tại biên lai thu số 0007686 ngày 01/12/2021 tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Thủy Nguyên), anh Nguyễn Ngọc A đã nộp đủ án phí.

4. Về quyền kháng cáo: Anh Nguyễn Ngọc A có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án; chị Đào Thị T có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 của Luật Thi hành án dân sự được sửa đổi, bổ sung năm 2014 thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, Điều 7a và Điều 9 của Luật Thi hành án dân sự được sửa đổi, bổ sung năm 2014; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 của Luật Thi hành án dân sự được sửa đổi, bổ sung năm 2014.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

116
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con số 32/2022/HNGĐ-ST

Số hiệu:32/2022/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Thuỷ Nguyên - Hải Phòng
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 16/02/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;