TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN MỸ TÚ, TỈNH SÓC TRĂNG
BẢN ÁN 32/2021/HNGĐ-ST NGÀY 29/09/2021 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON
Ngày 29 tháng 9 năm 2021 tại phòng xử án Tòa án nhân dân huyện Mỹ Tú, tỉnh Sóc Trăng xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 88/2021/TLST- HNGĐ ngày 26 tháng 4 năm 2021 về “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con”, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 51/2021/QĐXXST-HNGĐ ngày 07 tháng 7 năm 2021, giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: Chị Nguyễn Thị Thùy A; Cư trú tại: Ấp Tân T, xã Long H, huyện Mỹ T, tỉnh Sóc T;
Địa chỉ liên hệ: Ấp Phương H, xã Hưng P, huyện Mỹ T, tỉnh Sóc T (vắng mặt).
- Bị đơn: Anh Nguyễn Hữu L; Cư trú tại: Ấp Tân T, xã Long H, huyện Mỹ Tú, tỉnh Sóc T (vắng mặt).
NỘI DUNG VỤ ÁN
Tại đơn khởi kiện ngày 22 tháng 3 năm 2021 và trong quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn chị Nguyễn Thị Thùy A trình bày:
Về quan hệ hôn nhân: Ngày 18 tháng 8 năm 2012 chị Nguyễn Thị Thùy A và anh Nguyễn Hữu L đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã Long H, huyện Mỹ T, tỉnh Sóc T và tổ chức lễ cưới vào cuối năm 2015. Thời gian đầu anh chị chung sống vui vẻ, hạnh phúc nhưng đến tháng 11/2020 thì phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân mâu thuẫn là do anh L không lo làm ăn, không chăm lo cho vợ con. Anh chị đã nhiều lần hàn gắn tình cảm nhưng không có kết quả, chị A không còn tình cảm với anh L.
Về con chung: Trong thời kỳ hôn nhân anh chị có 02 người con chung tên Nguyễn Thị Kim Q, sinh ngày 24/7/2006 và Nguyễn Hữu L, sinh ngày 16/7/2012, hiện nay cháu Q đang sống chung với chị A, cháu L đang sống chung với anh L.
Về tài sản chung và nợ chung: Chị Nguyễn Thị Thùy A xác định không có.
Chị Nguyễn Thị Thùy A yêu cầu Tòa án giải quyết:
- Về quan hệ hôn nhân: Chị Nguyễn Thị Thùy A yêu cầu được ly hôn với anh Nguyễn Hữu L.
- Về con chung: Chị Nguyễn Thị Thùy A yêu cầu được trực tiếp nuôi dưỡng 02 con chung tên Nguyễn Thị Kim Q, sinh ngày 24/7/2006 và Nguyễn Hữu L, sinh ngày 16/7/2012 đến khi các con đủ 18 tuổi, chị A không yêu cầu anh L cấp dưỡng nuôi con.
- Về tài sản chung và nợ chung: Chị Nguyễn Thị Thùy A xác định không có, không yêu cầu giải quyết.
Đối với bị đơn anh Nguyễn Hữu L: Sau khi thụ lý vụ án, Tòa án đã tống đạt hợp lệ thông báo về việc thụ lý vụ án nhưng bị đơn không có ý kiến gì đối với yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn. Tòa án triệu tập hợp lệ bị đơn 02 lần để tham gia tố tụng tại phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải nhưng bị đơn vắng mặt. Vì vậy, Tòa án đã lập biên bản kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ; Biên bản không tiến hành hòa giải được và thông báo về kết quả phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ để đưa vụ án ra xét xử.
Bị đơn đã được triệu tập hợp lệ để tham gia tố tụng tại phiên tòa sơ thẩm đến lần thứ hai nhưng vắng mặt không có lý do.
Ý kiến của đại diện Viện kiểm sát tham gia phiên tòa:
- Về tố tụng: Việc Tòa án thụ lý vụ án là đúng thẩm quyền. Từ khi thụ lý vụ án đến khi đưa vụ án ra xét xử Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa đã thực hiện đúng theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự. Đối với nguyên đơn tại phiên tòa hôm nay đã thực hiện quyền và nghĩa vụ đúng theo quy định của pháp luật. Riêng bị đơn chưa chấp hành đúng theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự.
- Về nội dung giải quyết vụ án: Chị A và anh L chung sống có đăng ký kết hôn theo quy định của pháp luật, thời gian đầu anh chị chung sống hạnh phúc, nhưng đến tháng 11/2020 thì phát sinh mâu thuẫn, từ đó anh chị không còn sống chung cho đến nay; Về con chung tên Nguyễn Thị Kim Q, sinh ngày 24/7/2006 và Nguyễn Hữu L, sinh ngày 16/7/2012, hiện nay cháu Q đang sống chung với chị A, cháu L đang sống chung với anh L, nhưng nguyện vọng cháu L muốn sống với chị A nên giao 02 cháu cho chị A trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng; Tài sản chung và nợ chung không có yêu cầu giải quyết. Đề nghị Hội đồng xét xử chấp yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn chị Nguyễn Thị Thùy A.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Về tố tụng:
- Tòa án triệu tập hợp lệ nguyên đơn để tham gia tố tụng tại phiên tòa sơ thẩm, nhưng nguyên đơn có đơn đề nghị yêu cầu xét xử vắng mặt. Xét thấy, việc vắng mặt của nguyên đơn không gây trở ngại cho việc xét xử. Vì vậy, căn cứ điểm a khoản 2 Điều 227 và khoản 1 Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt nguyên đơn.
- Tòa án triệu tập hợp lệ bị đơn đến lần thứ hai để tham gia tố tụng tại phiên tòa sơ thẩm, bị đơn vắng mặt không có lý do. Vì vậy, căn cứ điểm b khoản 2 Điều 227 và khoản 3 Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt bị đơn.
[2] Về thẩm quyền giải quyết: Tranh chấp giữa các đương sự là ly hôn, tranh chấp về nuôi con theo quy định tại khoản 1 Điều 28 Bộ luật Tố tụng dân sự; bị đơn cư trú tại ấp Tân T, xã Long H, huyện Mỹ T, tỉnh Sóc T, theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 35 và điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật Tố tụng dân sự, Tòa án nhân dân huyện Mỹ Tú, tỉnh Sóc Trăng thụ lý, giải quyết vụ án là đúng thẩm quyền.
[3] Về quan hệ hôn nhân: Xét thấy, chị Nguyễn Thị Thùy A và anh Nguyễn Hữu L kết hôn trên cơ sở tự nguyện, không ai ép buộc và có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã Long H, huyện Mỹ T, tỉnh Sóc T và được cấp giấy chứng nhận kết hôn số: 108 ngày 18 tháng 8 năm 2012. Như vậy, quan hệ hôn nhân giữa anh chị là hôn nhân hợp pháp, được pháp luật công nhận. Căn cứ khoản 1 Điều 51 Luật Hôn nhân và gia đình thì chị A có quyền yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn với anh L.
[4] Xét lý do xin ly hôn của chị A, Hội đồng xét xử thấy rằng: Sau khi kết hôn chị A và anh L chung sống với nhau có 02 người con chung. Tuy nhiên, chị A và anh L bắt đầu phát sinh mâu thuẫn từ tháng 11/2020, nguyên nhân mâu thuẫn theo chị A là anh L không lo làm ăn, không chăm lo cho vợ con. Anh chị đã nhiều lần hàn gắn tình cảm nhưng không có kết quả, hiện nay mỗi người sống một nơi, không quan tâm, chăm sóc cho nhau, anh chị không còn chung sống với nhau từ tháng 11/2020 cho đến nay. Tòa án đã triệu tập anh L 02 lần để hòa giải cho vợ chồng đoàn tụ, nhưng anh L không có mặt để Tòa án hòa giải đoàn tụ, anh L cũng không có ý kiến gì về việc chị A xin ly hôn, cho thấy anh L không muốn hàn gắn tình cảm vợ chồng. Như vậy, tình trạng hôn nhân của chị A và anh L cũng đã đến mức trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài và mục đích hôn nhân không đạt được. Căn cứ khoản 1 Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình, Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu ly hôn của chị A.
[5] Về con chung: Trong thời kỳ hôn nhân chị A và anh L có 02 con chung tên Nguyễn Thị Kim Q, sinh ngày 24/7/2006 và Nguyễn Hữu L, sinh ngày 16/7/2012, hiện nay cháu Q đang sống chung với chị A, cháu L đang sống chung với anh L, chị A yêu cầu tiếp tục nuôi 02 con chung. Xét thấy, từ khi anh chị không còn chung sống với nhau thì cháu Q sống chung với chị A do chị A nuôi dưỡng, chăm sóc. Còn cháu L sống chung với anh L nhưng thực tế anh L không trực tiếp chăm sóc, mà cháu L sống chung với cha mẹ của anh L tại ấp Tân T, xã Long H, huyện Mỹ T, tỉnh Sóc T, tại thời điểm xác minh thì anh L cũng không có mặt. Tòa án có ghi ý kiến cháu Q và cháu L, 02 cháu có nguyện vọng sống chung với chị A, nhằm ổn định cuộc sống cho 02 cháu. Căn cứ khoản 2 Điều 81 Luật Hôn nhân và gia đình. Hội đồng xét xử quyết định giao cháu Nguyễn Thị Kim Q, sinh ngày 24/7/2006 và Nguyễn Hữu L, sinh ngày 16/7/2012 cho chị A trực tiếp nuôi dưỡng đến khi cháu Q và cháu L đủ 18 tuổi.
[6] Về nghĩa vụ, quyền của cha mẹ không trực tiếp nuôi con sau khi ly hôn. Căn cứ khoản 3 Điều 82 Luật Hôn nhân và gia đình. Anh L có quyền, nghĩa vụ thăm nom con chung, mà không ai được cản trở.
[7] Về cấp dưỡng nuôi con: Chị A có khả năng nuôi con không yêu cầu cấp dưỡng nuôi con, nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét.
[8] Về tài sản chung và nợ chung: Không có yêu cầu nên không đặt ra xem xét.
[9] Tại phiên tòa, Kiểm sát viên đề nghị chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn là có căn cứ, nên Hội đồng xét xử chấp nhận.
[10] Về án phí: Căn cứ khoản 4 Điều 147 Bộ luật Tố tụng dân sự. Điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án. Nguyên đơn phải chịu 300.000 đồng án phí dân sự sơ thẩm.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
- Căn cứ vào khoản 1 Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39; khoản 4 Điều 147; điểm a, b khoản 2 Điều 227; khoản 1, 3 Điều 228; khoản 1 Điều 273 và khoản 1 Điều 280 Bộ luật Tố tụng dân sự;
- Khoản 1 Điều 51; khoản 1 Điều 56; khoản 2 Điều 81; khoản 3 Điều 82 và Điều 83 Luật Hôn nhân và gia đình;
- Điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Tuyên xử:
1. Về quan hệ hôn nhân: Cho ly hôn giữa chị Nguyễn Thị Thùy A và anh Nguyễn Hữu L.
2. Về con chung: Giao con chung Nguyễn Thị Kim Q, sinh ngày 24 tháng 7 năm 2006 và Nguyễn Hữu L, sinh ngày 16 tháng 7 năm 2012 cho chị A trực tiếp nuôi dưỡng đến khi 02 cháu đủ 18 tuổi, anh L không phải cấp dưỡng nuôi con.
- Anh L có quyền, nghĩa vụ thăm nom con chung, không ai được cản trở.
3. Về tài sản chung và nợ chung: Không có yêu cầu nên không xem xét.
4. Về án phí dân sự sơ thẩm: Chị Nguyễn Thị Thùy A phải chịu 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) án phí ly hôn, nhưng được khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp 300.000 đồng theo Biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số 0009011 ngày 19 tháng 4 năm 2021 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Mỹ Tú, tỉnh Sóc Trăng. Như vậy, chị A đã nộp đủ án phí sơ thẩm.
5. Về quyền kháng cáo: Các đương sự có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết công khai tại Ủy ban nhân dân nơi cư trú, để yêu cầu Toà án nhân dân tỉnh Sóc Trăng xét xử theo trình tự phúc thẩm.
6. Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự được sửa đổi, bổ sung năm 2014 thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a và 9 Luật thi hành án dân sự được sửa đổi, bổ sung năm 2014, thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự được sửa đổi, bổ sung năm 2014.
Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con số 32/2021/HNGĐ-ST
Số hiệu: | 32/2021/HNGĐ-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Mỹ Tú - Sóc Trăng |
Lĩnh vực: | Hôn Nhân Gia Đình |
Ngày ban hành: | 29/09/2021 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về