Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con số 30/2022/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ PHAN RANG – THÁP CHÀM, TỈNH NINH THUẬN

BẢN ÁN 30/2022/HNGĐ-ST NGÀY 17/05/2022 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON

Ngày 17 tháng 5 năm 2022 tại hội trường xử án, Tòa án nhân dân thành phố Phan Rang - Tháp Chàm xét xử sơ thẩm công khai vụ án hôn nhân gia đình thụ lý số 514/2021/TLST-HNGĐ ngày 17 tháng 12 năm 2021 về việc: “Ly hôn, tranh chấp nuôi con” theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 26/2022/QĐXXST-HNGĐ ngày 12-4-2022, quyết định hoãn phiên tòa số 21/2022/QĐST- HNGĐ ngày 28-4-2022 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Chị Bùi Thị L, sinh năm 1991 (có mặt).

Địa chỉ: Thôn Hòa T, xã An H, huyện Ninh P, tỉnh Ninh Thuận.

- Bị đơn: Anh Trần Ý N, sinh năm 1991 (vắng mặt).

Địa chỉ: Khu phố 6, phường Đạo L, thành phố P, tỉnh Ninh Thuận.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại đơn khởi kiện ngày 14-12-2021, trong quá trình giải quyết vụ án cũng như tại phiên tòa Nguyên đơn chị Bùi Thị L trình bày:

Chị và anh Trần Ý N quen biết, tìm hiểu và tiến tới hôn nhân tự nguyện, có tổ chức đám cưới, đăng ký kết hôn tại UBND xã An Hải ngày 13-02-2018, giấy CNKH số 19. Sau khi kết hôn vợ chồng chung sống hạnh phúc tại nhà cha mẹ chị. Vợ chồng chung sống hạnh phúc đến năm 2020 thì phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân mâu thuẫn do anh N chi li, tính toán trong chuyện tiền bạc, hàng ngày phát tiền đi chợ và yêu cầu chị ghi giấy mua những món gì, số tiền bao nhiêu. Ngoài ra chồng chị nghe lời mẹ và gia đình, thường xuyên gây mâu thuẫn về chuyện tiền bạc, coi thường chị và gia đình nhà chị nghèo. Khi cãi nhau anh N đánh chị, khi cho con ăn, nếu con không ăn anh N lôi vào Toilet khóa cửa đánh không cho ai can ngăn. Trước đây chị có làm đầu bếp nấu ăn cho Công nhân và Nhân viên Công ty Cổ phần Chăn nuôi CP Việt Nam, khi đi làm anh N ghen tuông không cho đi làm do đó chị đã nghỉ làm vì lo cho hạnh phúc gia đình. Khi chị nghỉ làm thì vấn đề tiền bạc lại phát sinh nên chị không thể nào sống chung với anh N nữa. Đến tháng 4, 5 năm 2021 vợ chồng sống ly thân, anh N dọn đồ về nhà cha mẹ anh sống và từ đó không liên lạc hàn gắn tình cảm với chị, không hỏi thăm con và gửi tiền nuôi con. Hiện nay chị không còn tình cảm với anh N nữa, chị xin ly hôn.

Khi chị nộp đơn ly hôn anh N có biết nhưng không đến Tòa, anh N nói để Tòa tự giải quyết.

Vợ chồng có 01 con chung tên Trần Thiên B, sinh ngày 22-5-2018, cháu B hiện nay đang ở với chị. Nếu ly hôn chị xin nuôi con chung và không yêu cầu anh N cấp dưỡng nuôi con.

Tài sản chung và nợ chung không yêu cầu Tòa án giải quyết trong vụ án này.

Bị đơn anh Trần Ý N đã được tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng nhưng vắng mặt không có lý do.

Ý kiến của Đại diện Viện kiểm sát: Từ khi thụ lý vụ án đến trước khi HĐXX vào nghị án, Thẩm phán, Thư ký, Nguyên đơn đều tuân thủ đúng các quy định của Bộ luật tố tụng dân sự, riêng Bị đơn vắng mặt dù đã được Tòa án tống đạt hợp lệ. Tại phiên tòa hôm nay HĐXX đúng thành phần, xét xử đảm bảo đúng quy định của pháp luật. Về việc giải quyết vụ án: Đề nghị HĐXX chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của Nguyên đơn, giao cháu Trần Thiên B, sinh ngày 22-5-2018 cho chị Bùi Thị L trực tiếp nuôi dưỡng, anh N không phải cấp dưỡng nuôi con.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa, lời trình bày và kết quả tranh tụng tại phiên tòa, ý kiến của Kiểm sát viên, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về thủ tục tố tụng:

[1.1] Căn cứ vào đơn khởi kiện và các tài liệu chứng cứ kèm theo, xác định quan hệ pháp luật tranh chấp trong vụ kiện này là: “Ly hôn, tranh chấp nuôi con” được quy định tại khoản 1 Điều 28 Bộ luật Tố tụng Dân sự; thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân thành phố Phan Rang- Tháp Chàm theo quy định tại khoản 1 Điều 35 và khoản 1 Điều 39 Bộ luật Tố tụng Dân sự.

[1.2] Tại phiên tòa hôm nay Bị đơn tiếp tục vắng mặt không có lý do. Căn cứ điểm b khoản 2 Điều 227 Bộ luật Tố tụng Dân sự, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt Bị đơn.

[2] Về nội dung:

Xét yêu cầu khởi kiện của Nguyên đơn, Hội đồng xét xử nhận định:

[2.1] Quan hệ hôn nhân giữa chị Bùi Thị L và anh Trần Ý N được xác lập trên cơ sở tự nguyện và có đăng ký kết hôn theo quy định của pháp luật, đây là hôn nhân hợp pháp.

Tại phiên tòa chị L trình bày mâu thuẫn vợ chồng phát sinh từ năm 2020, nguyên nhân mâu thuẫn do anh N ghen tuông vô cớ, hay xúc phạm và đánh chị, anh N tính toán chi li về tiền bạc và coi thường nhà chị nghèo. Đến khoảng tháng 4, tháng 5 năm 2021 thì mâu thuẫn trầm trọng và anh N dọn đồ về nhà cha mẹ ruột sống cho đến nay. Lời trình bày của chị L phù hợp với đơn xin xác nhận ngày 12-4- 2022 của địa phương.

Xét thấy, vợ chồng đã sống ly thân và mạnh ai người đó sống, không quan tâm chăm sóc gì đến nhau. Hơn nữa khi nhận thông Thông báo thụ lý của Tòa án anh N không có ý kiến trình bày, không đến Tòa án để làm việc theo giấy báo cho thấy anh N không mong muốn hàn gắn tình cảm. Như vậy, có căn cứ cho thấy mâu thuẫn giữa chị L và anh N đã trầm trọng, tình cảm vợ chồng không còn, đời sống chung không thể kéo dài, căn cứ khoản 1 Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình, Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của chị L.

[2.2] Về quan hệ con cái: Chị L và anh N có 01 con chung tên Trần Thiên B, sinh ngày 22-5-2018, chị L có nguyện vọng nuôi con. Cháu B sống với chị L và gia đình nhà chị từ nhỏ đã quen, khi ly hôn anh N không có yêu cầu nuôi cháu B nên Hội đồng xét xử giao cháu B cho chị L trực tiếp nuôi dưỡng sẽ đảm bảo tốt nhất cho cháu. Về cấp dưỡng nuôi con, do chị L không yêu cầu anh N cấp dưỡng nuôi cháu B nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[2.3] Về tài sản chung, nợ chung: Đương sự không yêu cầu Tòa giải quyết trong vụ án này.

[3] Xét ý kiến của đại diện Viện kiểm sát, phù hợp với những nhận định trên, nên chấp nhận.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào: Khoản 1 Điều 28, khoản 1 Điều 35, khoản 1 Điều 39, khoản 4 Điều 147, khoản 2 Điều 227 Bộ luật Tố tụng Dân sự; Khoản 1 Điều 56, các điều 81, 82, 83 Luật Hôn nhân và gia đình; Điều 26, khoản 5 Điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội.

Tuyên xử:

Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của Nguyên đơn chị Bùi Thị L.

Về quan hệ hôn nhân: Chị Bùi Thị L được ly hôn với anh Trần Ý N.

Về con chung: Chị Bùi Thị L được quyền trực tiếp nuôi dưỡng 01 con chung tên Trần Thiên B, sinh ngày 22-5-2018, anh Trần Ý N không phải cấp dưỡng nuôi cháu Trần Thiên B do chị Bùi Thị L không yêu cầu.

Sau khi ly hôn, người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở.

Cha, mẹ không trực tiếp nuôi con lạm dụng việc thăm nom để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con thì người trực tiếp nuôi con có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom con của người đó.

Về án phí: Chị Bùi Thị L phải chịu 300.000 đồng (ba trăm ngàn đồng) án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm nhưng được khấu trừ vào số tiền 300.000 đồng (ba trăm ngàn đồng) tạm ứng án phí đã nộp theo biên lai số 0003750 ngày 14-12-2021. Chị L đã nộp đủ án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm.

Án xử công khai, sơ thẩm, có mặt Nguyên đơn, quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, riêng Bị đơn anh N vắng mặt, quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày được tống đạt hợp lệ bản án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

85
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con số 30/2022/HNGĐ-ST

Số hiệu:30/2022/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Phan Rang Tháp Chàm - Ninh Thuận
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 17/05/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;