Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con số 30/2022/HNGĐ-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN L, TỈNH Y

BẢN ÁN 30/2022/HNGĐ-ST NGÀY 12/04/2022 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON 

Ngày 12 tháng 4 năm 2022, tại trụ sở Toà án nhân dân huyện L- tỉnh Y, xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 01/2022/HNGĐ-ST ngày 04 tháng 01 năm 2022 về việc ly hôn theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 18/2022/QĐXX-ST ngày 17 tháng 3 năm 2022 giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Chị Lý Thị S1 24 tuổi

Địa chỉ: Thôn 1 V- xã PL- huyện L- tỉnh Y, có đơn đề nghị xét xử vắng mặt.

Bị đơn: Anh Đặng Văn S2 24 tuổi

Địa chỉ: Thôn 1 V- xã PL- huyện L- tỉnh Y, vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong đơn khởi kiện ngày 04-01-2022 và các lời khai tiếp theo, nguyên đơn là chị Lý Thị S1 trình bày: Chị và anh Đặng Văn S2 về sống chung năm 2015 trên cơ sở tự nguyện, đến tháng 10 năm 2019 làm thủ tục đăng ký kết hôn tại UBND xã PL- huyện L- tỉnh Y. Những năm đầu chung sống hoà thuận, hạnh phúc, đến cuối năm 2020 đầu năm 2021 thì xảy ra mâu thuẫn, nguyên nhân là do anh S2 tự ý đem bán hết tài sản chung (Đồi keo, quế và cả đất nền nhà…) mà không bàn bạc với chị. Vợ chồng nhiều lần xảy ra cãi nhau, thậm chí anh S2 còn đánh chị có lần phải đi viện. Mặc dù gia đình đã khuyên nhủ nhưng anh S2 không nghe, vợ chồng sống ly thân từ đầu năm 2021. Xác định tình cảm vợ chồng không còn chị đề nghị giải quyết cho ly hôn. Về con chung: Chị và anh Đặng Văn S2 có một cháu là Lý Ton Kh sinh ngày 21-9-2015; khi ly hôn chị sẽ nuôi cháu Kh, không yêu cầu anh S2 phải cấp dưỡng nuôi con. Tài sản chung, nợ chung chị không yêu cầu giải quyết.

Sau khi thụ lý vụ án, Toà án nhân dân huyện L- tỉnh Y đã ra văn bản thông báo và triệu tập hợp lệ nhiều lần nhưng anh Đặng Văn S2 vắng mặt nên Toà án tiếp tục giải quyết vụ án theo thủ tục pháp luật quy định.

Tại phiên tòa đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện L- tỉnh Y phát biểu ý kiến:

Về việc tuân theo pháp luật: Quá trình thụ lý, giải quyết vụ án và tại phiên tòa, Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký đã thực hiện đúng thủ tục tố tụng dân sự. Nguyên đơn đã thực hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ; bị đơn đã được triệu tập nhưng không có mặt là chưa thực hiện đúng quyền và nghĩa vụ theo quy định điều 70 của Bộ luật Tố tụng dân sự.

Về việc giải quyết vụ án: Đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ các điều 56, 81, 82, 83 Luật Hôn nhân và gia đình; điều 147 Bộ luật Tố tụng dân sự; khoản 5 điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Uỷ ban Thường vụ Quốc Hội; chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, tuyên xử cho chị S1 được ly hôn với anh S2, giao con cho chị S1 trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng; chị S1 phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên toà và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về thủ tục tố tụng:

Tranh chấp giữa chị Lý Thị S1 và anh Đặng Văn S2 là tranh chấp về hôn nhân và gia đình; các đương sự có địa chỉ thường trú tại xã PL- huyện L- tỉnh Y nên Tòa án nhân dân huyện L thụ lý giải quyết vụ án là đúng thẩm quyền theo quy định tại khoản 1 Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật Tố tụng dân sự.

Mặc dù đã được triệu tập, cấp, tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng nhưng anh Đặng Văn S2 vắng mặt trong quá trình giải quyết vụ án; vắng mặt tại phiên tòa lần thứ hai không có lý do; chị S1 có đơn đề nghị xét xử vắng mặt nên Tòa án xét xử vắng mặt cả bị đơn và nguyên đơn là đúng quy định tại điểm b khoản 2 điều 227; khoản 1 điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự.

[2] Về quan hệ hôn nhân: Chị Lý Thị S1 và anh Đặng Văn S2 kết hôn năm 2019, việc kết hôn này tuân thủ đúng những quy định của Luật Hôn nhân và gia đình do đó đây là hôn nhân hợp pháp.

Tại điều 19 luật Hôn nhân và gia đình quy định: “Vợ chồng có nghĩa vụ thương yêu, chung thủy, tôn trọng, quan tâm, chăm sóc, giúp đỡ nhau; cùng nhau chia sẻ, thực hiện các công việc trong gia đình”. Kết quả xác minh tại địa phương cơ bản phù hợp với lời khai của nguyên đơn cho thấy do nhiều nguyên nhân nên trong thời gian qua vợ chồng chị S1- anh S2 không hạnh phúc, trong đó nguyên nhân chính là do quan điểm, tính cách, lối sống không hợp nhau; không có sự thống nhất trong việc làm ăn, quản lý kinh tế. Hai người cũng đã có thời gian dài sống ly thân không còn quan tâm đến nhau nữa. Qúa trình giải quyết vụ án chị lý Thị S1 khẳng đình tình cảm vợ chồng không còn và kiên quyết đề nghị giải quyết cho ly hôn. Qua đó cho thấy tình cảm vợ chồng giữa chị S1 và anh S2 đã trở nên trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được, do đó yêu cầu khởi kiện xin ly hôn của chị S1 có căn cứ chấp nhận.

[3] Về con chung: Chị S1 và anh S2 có một cháu là Lý Ton Kh sinh ngày 21-9-2015. Qúa trình giải quyết vụ án chị S1 đề nghị được nuôi cháu Kh, không yêu cầu anh S2 phải cấp dưỡng nuôi con.

Xét hoàn cảnh thực tế anh S2 đang đi làm ăn xa. Để đảm bảo sự ổn định trong cuộc sống sinh hoạt, học tập, cần giao cháu Lý Ton Kh cho chị S1 trực tiếp chăm sóc nuôi dưỡng là phù hợp với hoàn cảnh thực tế, phù hợp với quy định của pháp luật. Do chị S1 không yêu cầu nên anh S2 không phải cấp dưỡng nuôi con và có quyền thăm nom con chung.

[4] Về tài sản chung; nợ chung: Chị S1 không yêu cầu giải quyết.

[5] Về án phí: Chị S1 phải chịu án phí ly hôn theo quy định của pháp luật.

[6] Ý kiến của đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện L- tỉnh Y về việc giải quyết vụ án phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên được chấp nhận.

Vì các lẽ trên 

QUYẾT ĐỊNH

1- Về quan hệ hôn nhân: Căn cứ khoản 1 điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình; điểm b khoản 2 điều 227; khoản 1 điều 228; điều 238 Bộ luật Tố tụng dân sự; Tuyên xử: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, chị Lý Thị S1 được ly hôn với anh Đặng Văn S2.

2- Về con chung: Căn cứ các điều 81, 82, 83 Luật hôn nhân và gia đình; giao cháu Lý Ton Kh sinh ngày 21-9-2015 cho chị Lý Thị S1 trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục. Anh Đặng Văn S2 không phải cấp dưỡng nuôi con và có quyền thăm nom con chung, không ai được cản trở anh S2 thực hiện quyền này.

3- Về án phí: Căn cứ khoản 4 điều 147 Bộ luật Tố tụng dân sự; điểm a khoản 5 điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Uỷ ban Thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án; chị Lý Thị S1 phải chịu 300.000 đồng án phí ly hôn. Xác nhận chị S1 đã nộp đủ tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện L- tỉnh Y theo biên lai số AA/2021/0002143 ngày 04-01-2022.

4- Quyền kháng cáo: Căn cứ điều 271, điều 273 Bộ luật Tố tụng dân sự; các đương sự có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được Bản án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

154
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con số 30/2022/HNGĐ-ST

Số hiệu:30/2022/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Lục Yên - Yên Bái
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 12/04/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;