Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con số 23/2024/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CƯ JÚT, TỈNH ĐẮK NÔNG

BẢN ÁN 23/2024/HNGĐ-ST NGÀY 10/09/2024 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON

Ngày 10 tháng 9 năm 2024, tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Cư Jút, tỉnh Đăk Nông xét xử sơ thẩm công khai vụ án Hôn nhân gia đình thụ lý số: 123/2024/TLST- HNGĐ, ngày 24 tháng 5 năm 2024 về việc “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 30/2024/QĐXXST-HNGĐ ngày 07 tháng 8 năm 2024 và Quyết định hoãn phiên tòa số 24/2024/QĐST-HNGĐ ngày 23 tháng 8 năm 2024 của Tòa án nhân dân huyện Cư Jút giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Bà Phạm Thị Vy T, sinh năm 1982

- Bị đơn: Ông Đỗ Đức H, sinh năm 1980 Cùng địa chỉ: Thôn 06, xã Tâm T, huyện Cư J, tỉnh Đăk N.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện đề ngày 14/5/2024, bản tự khai, biên bản lấy lời khai nguyên đơn bà Phạm Thị Vy T trình bày:

Về quan hệ hôn nhân: Bà và ông H tự nguyện đến với nhau năm 2001, có tổ chức lễ cưới, có đăng ký kết hôn và được UBND thị trấn Ea Tling, huyện Cư Jút, tỉnh Đăk Nông cấp giấy chứng nhận kết hôn vào năm 2001.

Sau khi cưới vợ chồng sống chung với bố mẹ chồng sau đó ra sống riêng tại Thôn 06, xã Tâm T, huyện Cư J, tỉnh Đăk N từ đó cho đến nay.

Khi bắt đầu cuộc sống chung vợ chồng đã phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân mâu thuẫn là do tính tình không hòa hợp, đến khi sinh bé đầu Đỗ Phạm Diệu L vợ chồng ly thân 01 năm, nhưng sau đó được sự khuyên can của gia đình, hai vợ chồng hòa thuận về chung sống với nhau và có bé thứ thứ hai. Tuy nhiên sau đó vợ chồng vẫn tiếp tục mâu thuẫn đến nay vợ chồng đã ly thân được 05 tháng. Trong thời gian ly thân đã tìm cách hàn gắn tình cảm nhưng không có kết quả. Nay nhận thấy tình cảm vợ chồng không còn, mục đích hôn nhân không đạt được nên bà yêu cầu ly hôn với ông Huân để ổn định cuộc sống Về con chung: Trong quá trình sống chung vợ chồng có 02 con chung tên Đỗ Phạm Diệu L, sinh ngày 26/7/2003 và Đỗ Đức P, sinh ngày 21/02/2007. Khi ly hôn vì con chung Đỗ Phạm Diệu L, sinh ngày 26/7/2003 đã trưởng thành và phát triển bình thường nên bà không yêu cầu Tòa án giải quyết, bà yêu cầu được nuôi con chung Đỗ Đức P, sinh ngày 21/02/2007 và không yêu cầu ông H cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung, nợ chung: Bà T không yêu cầu Tòa án giải quyết.

* Đối với bị đơn ông Đỗ Đức H: Quá trình giải quyết vụ án Tòa án đã thông báo về việc thụ lý vụ án, triệu tập hợp lệ nhiều lần và niêm yết các thủ tục tố tụng đúng theo quy định của pháp luật nhưng bị đơn không đến Tòa án làm việc. Tòa án đã ra thông báo về phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải để hòa giải nhưng bị đơn vẫn vắng mặt không có lý do, nên Tòa án không tiến hành mở phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải được. Vì vậy, Tòa án phải đưa vụ án ra xét xử theo quy định của pháp luật.

Tại phiên tòa:

* Nguyên đơn xác định yêu cầu khởi kiện như sau: Bà T yêu cầu ly hôn với ông H. Về con chung Đỗ Phạm Diệu L, sinh ngày 26/7/2003 đã trưởng thành và phát triển bình thường nên bà không yêu cầu Tòa án giải quyết, bà yêu cầu được nuôi con chung Đỗ Đức P, sinh ngày 21/02/2007 và không yêu cầu ông H cấp dưỡng nuôi con. Về tài sản chung, nợ chung: bà T không yêu cầu Tòa án giải quyết.

* Bị đơn: Ông Đỗ Đức H vắng mặt không có lý do.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Cư Jút có quan điểm về việc tuân theo pháp luật của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, sự tuân theo pháp luật của những người tham gia tố tụng và nội dung vụ án:

- Về tố tụng:

+ Việc tuân theo pháp luật của Thẩm phán từ khi thụ lý vụ án và của Hội đồng xét xử tại phiên tòa đã thực hiện đúng các quy định của Bộ luật Tố tụng Dân sự.

+ Về người tham gia tố tụng: Nguyên đơn bà Phạm Thị Vy T đã nghiêm túc thực hiện đầy đủ quyền, nghĩa vụ của mình được BLTTDS và các văn bản liên quan quy định. Bị đơn ông Đỗ Đức H đã được Tòa án triệu tập hợp lệ nhiều lần nhưng không chấp hành theo giấy triệu tập, thông báo phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải, phiên tòa lần thứ nhất và lần thứ hai bị đơn đều vắng mặt không có lý do, tuy nhiên Thẩm phán đã tiến hành lập biên bản và làm các thủ tục đúng theo quy định của pháp luật nên về hình thức tố tụng Viện kiểm sát nhân dân huyện Cư Jút xét thấy đảm bảo đầy đủ và hợp pháp.

- Về nội dung: Đề nghị HĐXX chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn. Về quan hệ hôn nhân: Bà Phạm Thị Vy T được ly hôn với ông Đỗ Đức H. Về con chung: Giao con chung Đỗ Đức P cho bà T trực tiếp nuôi dưỡng, bà T không yêu cầu ông H cấp dưỡng nuôi con, do con chung Đỗ Phạm Diệu L, sinh ngày 26/7/2003 đã trưởng thành và phát triển bình thường bà T không yêu cầu nên đề nghị HĐXX không đề cập giải quyết. Về tài sản chung, nợ chung: bà T không yêu cầu Tòa án giải quyết nên đề nghị HĐXX không đề cập giải quyết.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Về quan hệ tranh chấp và thẩm quyền giải quyết vụ án:

Về quan hệ pháp luật: Ngày 14/5/2024 bà Phạm Thị Vy T nộp đơn khởi kiện yêu cầu Tòa án nhân dân huyện Cư Jút giải quyết việc ly hôn và nuôi con với ông Đỗ Đức H do đó quan hệ pháp luật được xác định là “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con” theo khoản 1 Điều 28 Bộ luật tố tụng Dân sự.

Về thẩm quyền giải quyết vụ án: Bị đơn ông Đỗ Đức H có nơi cư trú tại Thôn 06, xã Tâm T, huyện Cư J, tỉnh Đăk N nên vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Cư Jút theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật tố tụng Dân sự.

[2] Về thủ tục xét xử vắng mặt Tòa án đã tiến hành tống đạt các văn bản tố tụng theo quy định tại Điều 175, Điều 196, Điều 208, Điều 220 Bộ luật tố tụng dân sự nhưng bị đơn ông Đỗ Đức H vẫn vắng mặt. Do đó Hội đồng xét xử quyết định vẫn tiến hành xét xử vắng mặt bị đơn ông Đỗ Đức H theo quy định tại điểm b khoản 2 Điều 227, khoản 3 Điều 228 Bộ luật tố tụng Dân sự.

[3] Về yêu cầu của nguyên đơn Căn cứ vào giấy chứng nhận kết hôn số 61, quyển số 01/01, ngày 28/12/2001 của UBND thị trấn Ea T, huyện Cư J, tỉnh Đăk N thì ông Đỗ Đức H và bà Phạm Thị Vy T là quan hệ hôn nhân hợp pháp và thuộc phạm vi điều chỉnh của luật Hôn nhân gia đình năm 2014.

Về mâu thuẫn gia đình: Trong quá trình giải quyết vụ án, tại các bản tự khai và tại phiên tòa bà T cho rằng khi bắt đầu cuộc sống chung vợ chồng đã phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân mâu thuẫn là do tính tình không hòa hợp, đến khi sinh bé đầu Đỗ Phạm Diệu L vợ chồng ly thân 01 năm, nhưng sau đó được sự khuyên can của gia đình, hai vợ chồng hòa thuận về chung sống với nhau và có bé thứ hai. Tuy nhiên sau đó vợ chồng vẫn tiếp tục mâu thuẫn đến nay vợ chồng đã ly thân được 05 tháng. Mặc khác, Tòa án đã triệu tập theo đúng quy định pháp luật ông H nhiều lần nhưng ông H vẫn không đến Tòa án để giải quyết việc ly hôn thể hiện ông H không có thiện chí mong muốn hàn gắn tình cảm vợ chồng. Quan hệ hôn nhân phải dựa trên tình cảm, tình yêu thương, tôn trọng, quan tâm, chăm sóc, giúp đỡ nhau, cùng nhau chia sẻ, thực hiện công việc trong gia đình. Tuy nhiên ông H không còn tình cảm đối với bà T. Từ những nhận định trên xét thấy có đủ cơ sở xác định quan hệ hôn nhân của ông H và bà T đã thật sự trầm trọng, mục đích hôn nhân không đạt được, đời sống chung không thể kéo dài nên căn cứ Điều 56 Luật hôn nhân gia đình năm 2014, Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu ly hôn của bà T.

Về con chung: Trong quá trình sống chung ông H và bà T có 02 con chung Đỗ Phạm Diệu L, sinh ngày 26/7/2003 và Đỗ Đức P, sinh ngày 21/02/2007. Khi ly hôn vì con chung Đỗ Phạm Diệu L, sinh ngày 26/7/2003 đã trưởng thành, phát triển bình thường và bà T không yêu cầu nên HĐXX không xem xét giải quyết. Đối với con chung Đỗ Đức P, sinh ngày 21/02/2007 bà T yêu cầu nuôi con và không yêu cầu ông H cấp dưỡng nuôi con và tại bản tự khai cháu Đỗ Đức P có nguyện vọng được ở với mẹ (BL25) để tạo điều kiện của sự phát triển của trẻ nên giao cho bà T trực tiếp nuôi dưỡng. Ghi nhận sự tự nguyện của bà T không yêu cầu ông H cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung và nợ chung: Bà T không yêu cầu Tòa án giải quyết, nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

[4] Xét quan điểm của đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Cư Jút về việc tuân theo pháp luật tố tụng dân sự và phát biểu quan điểm về đường lối xử lý là phù hợp với quy định của pháp luật.

[5] Về án phí: Nguyên đơn phải chịu toàn bộ tiền án phí ly hôn sơ thẩm.

[6] Về quyền kháng cáo: Đương sự có quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

- Căn cứ khoản 1 Điều 28; khoản 1 Điều 35; khoản 1 Điều 39; Điều 147; Điều 227; Điều 228; Điều 273 Bộ luật tố tụng dân sự;

- Căn cứ Điều 8, Điều 9, Điều 51, Điều 53, Điều 56, Điều 57, Điều 58, Điều 81, Điều 82, Điều 83, Điều 84 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014;

- Căn cứ Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, nộp, quản lý, sử dụng án phí, lệ phí toà án.

Tuyên xử: Chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.

[1] Về quan hệ hôn nhân: Bà Phạm Thị Vy T được ly hôn với ông Đỗ Đức H.

Giấy chứng nhận kết hôn số 61, quyển số 01/01 ngày 28/12/2001 của UBND thị trấn Ea Tling, huyện Cư Jút, tỉnh Đăk Nông không còn giá trị pháp lý kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật.

[2] Về con chung: Giao trẻ Đỗ Đức P, sinh ngày 21/02/2007 cho bà T trực tiếp nuôi dưỡng. Tạm hoãn nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con cho ông H do bà T không yêu cầu. Vì con chung Đỗ Phạm Diệu L, sinh ngày 26/7/2003 đã trưởng thành và phát triển bình thường, bà T không yêu cầu nên HĐXX không đề cập giải quyết.

+ Khi có lý do chính đáng, mức cấp dưỡng và phương thức cấp dưỡng có thể thay đổi. Việc thay đổi mức cấp dưỡng và phương thức cấp dưỡng do các bên tự thỏa thuận. Nếu không thỏa thuận được thì yêu cầu tòa án giải quyết.

+ Ông H có quyền thăm nom con, không ai được cản trở.

+ Vì lợi ích của con, theo yêu cầu của cha mẹ hoặc cá nhân, tổ chức (người thân thích, cơ quan quản lý nhà nước về gia đình, cơ quan quản lý nhà nước về trẻ em, Hội liên hiệp phụ nữ), Tòa án có thể quyết định việc thay đổi người trực tiếp nuôi con.

[3] Về tài sản chung và nợ chung: Bà T không yêu cầu nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

[4] Về án phí là: 300.000 đồng (Ba trăm nghìn) đồng do bà Phạm Thị Vy T chịu, được trừ vào số tiền tạm ứng án phí 300.000 (Ba trăm nghìn) đồng mà bà Thảo đã nộp theo biên lai thu tiền tạm ứng án phí số 0005075 ngày 23/5/2024 của Chi cục thi hành án dân sự huyện Cư Jút. Bà T đã nộp đủ án phí.

[5] Về quyền kháng cáo: Nguyên đơn bà T có mặt có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, bị đơn ông H vắng mặt có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được tống đạt hợp lệ.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6,7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

38
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con số 23/2024/HNGĐ-ST

Số hiệu:23/2024/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Cư Jút - Đăk Nông
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 10/09/2024
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: [email protected]
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;