Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con số 23/2022/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN DƯƠNG MINH CHÂU, TỈNH TÂY NINH

BẢN ÁN 23/2022/HNGĐ-ST NGÀY 09/05/2022 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON

Ngày 09 tháng 5 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân Huyện Dương Minh Châu, tỉnh Tây Ninh xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 326/2021/TLST-HNGĐ ngày 28 tháng 12 năm 2021 về “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 23/2022/QĐXXST-HNGĐ ngày 18 tháng 4 năm 2022, giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Chị Nguyễn Thị Tr, sinh năm 1982; địa chỉ cư trú: Tổ 11 ấp T, xã M, Huyện D, tỉnh Tây Ninh; vắng mặt, có đơn đề nghị giải quyết vắng mặt.

2. Bị đơn: Anh Lê Văn H, năm 1983; địa chỉ cư trú: Tổ 11 ấp T, xã M, Huyện D, tỉnh Tây Ninh; hiện đang chấp hành án tại Trại giam T1 của Bộ Công an có địa chỉ tại xã T2, huyện T3, tỉnh Long An vắng mặt, có đơn đề nghị giải quyết vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện ngày 21 tháng 6 năm 2021 và quá trình giải quyết vụ án nguyên đơn chị Nguyễn Thị Tr trình bày:

Chị và anh Lê Văn H tự nguyện chung sống với nhau, không có tổ chức đám cưới và có đăng ký kết hôn tại Uỷ ban nhân dân xã Đồng Khởi, huyện Châu Thành, tỉnh Tây Ninh vào ngày 07-11-2017. Sau khi kết hôn, vợ chồng chung sống hạnh phúc đến tháng 3 năm 2018 thì phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân do anh H có tình cảm với người phụ nữ khác bên ngoài, chị có khuyên anh H về đoàn tụ với chị nhưng anh H không đồng ý. Quá trình chung sống, anh H có đánh chị dẫn đến chị bị gãy xương tay trái. Đến tháng 3 năm 2019, anh H bị Tòa án nhân dân huyện Đức Hòa, tỉnh Long An xử phạt 09 năm tù về tội “Trộm cắp tài sản”, hiện anh H đang chấp hành án tại Trại giam T1, tỉnh Long An. Thời gian anh H chấp hành án, chị có đi thăm anh H nhiều lần nhưng anh H không hối lỗi, còn xúc phạm chị. Nay chị nhận thấy tình cảm vợ chồng không còn, không thể tiếp tục chung sống với anh H được nữa nên yêu cầu ly hôn với anh H.

Về con chung: Có 01 con chung tên Lê Nguyễn Hoài Th sinh ngày 08-12- 2018, hiện con đang sống cùng với chị Tr. Chị yêu cầu giải quyết cho chị được tiếp tục trực tiếp nuôi dưỡng con chung, chị không yêu cầu anh H cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung, nợ chung: Không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Tại biên bản lấy lời khai ngày 23-02-2022, bị đơn – anh Lê Văn H trình bày:

Anh thống nhất với lời trình bày của chị Tr về thời gian chung sống, kết hôn, con chung, tài sản chung và nợ chung. Tuy nhiên, trong quá trình hôn nhân anh và chị Tr không có mâu thuẫn như chị Tr trình bày, anh không có mối quan hệ bất chính với phụ nữ khác. Trong quá trình chung sống do chị Tr đam mê cờ bạc nên anh có đánh chị Tr một lần dẫn đến chị Tr bị gãy xương tay. Vợ chồng anh chung sống hạnh phúc đến tháng 3/2019 anh bị bắt đi chấp hành án 09 năm tù về tội “Trộm cắp tài sản”. Do đó, anh không đồng ý ly hôn với chị Tr. Anh đưa ra giải pháp chấp hành án tốt để được giảm thời hạn chấp hành án, sớm về với gia đình chăm lo vợ con.

Về con chung: Có 01 con chung tên Lê Nguyễn Hoài Th sinh ngày 08-12- 2018. Trường hợp Tòa án giải quyết cho anh và chị Tr ly hôn thì anh đồng ý giao con chung cho chị Tr trực tiếp nuôi dưỡng, anh không cấp dưỡng nuôi con do anh đang chấp hành án.

Về tài sản chung, nợ chung: Không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

- Ý kiến của đại diện Viện kiểm sát nhân dân Huyện Dương Minh Châu, tỉnh Tây Ninh:

+ Về tố tụng: Thẩm phán thụ lý vụ án, thu thập chứng cứ, chuẩn bị xét xử và quyết định đưa vụ án ra xét xử đều bảo đảm đúng quy định về thời hạn, nội dung, thẩm quyền của Bộ luật tố tụng dân sự; Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa thực hiện đúng trình tự, thủ tục đối với phiên tòa dân sự. Những người tham gia tố tụng đều thực hiện đúng quyền, nghĩa vụ của mình theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự và có đơn xin xét xử vắng mặt có lý do chính đáng.

+ Về nội dung: Căn cứ Điều 51, 56 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của Chị Nguyễn Thị Tr với anh Lê Văn H. Về con chung: Giao cháu Lê Nguyễn Hoài Th, sinh năm 2018 cho chị Tr trực tiếp nuôi dưỡng, ghi nhận chị Tr không yêu cầu anh H cấp dưỡng nuôi con. Về tài sản chung, nợ chung: Không yêu cầu giải quyết. Về án phí: Chị Tr chịu án phí theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Căn cứ vào tài liệu, chứng cứ đã được xem xét tại phiên tòa, kết quả tranh tụng tại phiên tòa, ý kiến của đại diện Viện kiểm sát, xét thấy:

[1] Về thủ tục tố tụng: Chị Nguyễn Thị Tr khởi kiện yêu cầu ly hôn với anh Lê Văn H, hiện đang chấp hành án tại Trại giam T1 của Bộ Công an có địa chỉ tại xã T2, huyện T3, tỉnh Long An. Trước khi đi chấp hành án, anh H có địa chỉ cư trú tại ấp T, xã M, Huyện D, tỉnh Tây Ninh. Do đó, căn cứ khoản 1 Điều 28, khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật tố tụng dân sự xác định quan hệ pháp luật là tranh chấp hôn nhân và gia đình về “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con” và thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân Huyện Dương Minh Châu, tỉnh Tây Ninh.

Chị Tr, anh H đều có đơn xin xét xử vắng mặt nên Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt các đương sự theo quy định tại khoản 1 Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự.

[2] Về quan hệ hôn nhân: Chị Nguyễn Thị Tr và anh Lê Văn H tự nguyện chung sống và đăng ký kết hôn tại Uỷ ban nhân dân xã Đồng Khởi, huyện Châu Thành, tỉnh Tây Ninh vào ngày 07-11-2017. Đây là hôn nhân hợp pháp được pháp luật công nhận và bảo vệ. Quá trình chung sống, đến tháng 3 năm 2019 thì anh H bị bắt đi chấp hành án 09 năm tù về tội “Trộm cắp tài sản”.

Chị Tr khởi kiện yêu cầu ly hôn với anh H bởi vì khi còn chung sống anh H có tình cảm với người phụ nữ khác bên ngoài, anh H có đánh chị dẫn đến chị bị gãy xương tay trái, cuộc sống hôn nhân của chị không hạnh phúc và chị không còn tình cảm với anh H. Xét thấy, căn cứ các biên bản xác minh ngày 17- 3-2022 tại ấp Tân Trung, xã Tân Bình, thành phố Tây Ninh, là nơi anh H, chị Tr thuê phòng trọ sinh sống vào năm 2017-2018 thể hiện nội dung anh H có đánh chị Tr nhiều lần nhưng không rõ nguyên nhân, hàng xóm chỉ can ngăn mà không báo chính quyền địa phương. Tại biên bản lấy lời khai ngày 23-02-2022, anh H thừa nhận do chị Tr đam mê cờ bạc nên anh có đánh chị Tr một lần dẫn đến chị Tr bị gãy xương tay.

Do đó, có cơ sở để xác định, tình trạng hôn nhân của chị Tr và anh H đã trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được. Vì vậy, Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu ly hôn của chị Tr đối với anh H theo quy định tại Điều 56 của Luật Hôn nhân và gia đình.

[3] Về con chung: Có 01 con chung tên Lê Nguyễn Hoài Th sinh ngày 08-12-2018, hiện con đang sống cùng với chị Tr. Chị Tr yêu cầu giải quyết cho chị được tiếp tục trực tiếp nuôi dưỡng con chung. Anh H cũng đồng ý giao con chung cho chị Tr nuôi dưỡng do anh đang chấp hành án nên Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu của chị Tr, giao con chung cho chị Tr trực tiếp nuôi dưỡng. Ghi nhận chị Tr không yêu cầu anh H cấp dưỡng nuôi con. Anh H có quyền, nghĩa vụ thăm nom con không ai được cản trở.

[4] Về tài sản chung, nợ chung: Không yêu cầu Tòa án giải quyết.

[5] Xét lời đề nghị tại phiên toà của đại diện Viện kiểm sát nhân dân Huyện Dương Minh Châu, tỉnh Tây Ninh là có cơ sở nên Hội đồng xét xử chấp nhận.

[6] Về án phí dân sự sơ thẩm: Chị Nguyễn Thị Tr phải chịu theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1 Điều 28, khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, 147 của Bộ luật tố tụng dân sự; các Điều 56, 81, 82 và 83 của Luật Hôn nhân và gia đình; Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

1. Chấp nhận yêu cầu ly hôn, tranh chấp về nuôi con của chị Nguyễn Thị Tr đối với anh Lê Văn H.

1.1 Về hôn nhân: Chị Nguyễn Thị Tr được ly hôn với anh Lê Văn H.

1.2 Về con chung: Giao cháu Lê Nguyễn Hoài Th sinh ngày 08-12-2018, cho chị Nguyễn Thị Tr được trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục; ghi nhận chị Tr không yêu cầu anh H phải cấp dưỡng nuôi con.

Anh H có quyền, nghĩa vụ thăm nom con chung không ai được cản trở.

1.3 Về tài sản chung, nợ chung: Không yêu cầu Tòa án giải quyết.

2. Về án phí dân sự sơ thẩm: Chị Nguyễn Thị Tr phải chịu 300.000 (ba trăm nghìn) đồng tiền án phí dân sự sơ thẩm, được khấu trừ vào tiền tạm ứng án phí đã nộp 300.000 đồng theo biên lai thu số 0011963 ngày 21-12-2021 của Chi cục Thi hành án dân sự Huyện Dương Minh Châu, tỉnh Tây Ninh.

3. Các đương sự có quyền kháng cáo lên Tòa án nhân dân tỉnh Tây Ninh trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

16
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con số 23/2022/HNGĐ-ST

Số hiệu:23/2022/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Dương Minh Châu - Tây Ninh
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 09/05/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;