TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN HỮU LŨNG, TỈNH LẠNG SƠN
BẢN ÁN 23/2021/HNGĐ-ST NGÀY 09/09/2021 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON
Ngày 09 tháng 9 năm 2021, tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Hữu Lũng, tỉnh Lạng Sơn, xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 55/2021/TLST-HNGĐ ngày 12 tháng 5 năm 2021, về việc: Ly hôn, tranh chấp về nuôi con khi ly hôn, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 23/2021/QĐXXST-HNGĐ, ngày 05 tháng 8 năm 2021 và Quyết định hoãn phiên tòa số: 18/2021/QĐST-HNGĐ ngày 24 tháng 8 năm 2021, giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: Anh Mè Văn M, sinh năm 1991. Địa chỉ: Thôn S, xã H, huyện H, tỉnh Lạng Sơn. Vắng mặt.
- Bị đơn: Chị Trương Thị N, sinh năm 1995. Địa chỉ: Thôn S, xã H, huyện H, tỉnh Lạng Sơn. Vắng mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo đơn khởi kiện ngày 10 tháng 5 năm 2021, trong quá trình tố tụng anh Mè Văn M trình bày:
Anh Mè Văn M, chị Trương Thị N trước khi kết hôn được tự do tìm hiểu và được hai bên gia đình đồng ý tổ chức cưới hỏi theo phong tục địa phương, đến ngày 04/11/2016, đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã H, huyện H, tỉnh Lạng Sơn. Thời gian đầu hai vợp chồng chung sống hạnh phúc hòa thuận nhưng chỉ được khoảng một năm, từ tháng 10/2017 thì cuộc sống vợ chồng thường xuyên cãi chửi nhau vì bất đồng trong quan điểm sống, trong những lần cãi chửi nhau không giữ được bình tĩnh tôi có đánh vợ nhiều lần.
Do cuộc sống vợ chồng thường xuyên cãi chửi nhau nên đến tháng 02/2018, chị N bỏ đi làm công ty, từ khi đi làm công ty chị N không quan tâm gì đến gia đình và từ đó vợ chồng sống ly thân cho đến nay. Mâu thuẫn vợ chồng được hai bên gia đình nội ngoại nhiều lần động viên, hòa giải khuyên nhủ nhưng không có kết quả. Từ khi ly thân vợ chồng không còn ai quan tâm đến ai, người nào chỉ biết bổn phận của người đó, xác định tình cảm vợ chồng không còn nên anh Mè Văn M yêu cầu được ly hôn với chị Trương Thị N.
Về con chung: Vợ chồng có 01 con chung cháu Mè K, sinh ngày 25/11/2016. Khi ly hôn anh Mè Văn M đề nghị được trực tiếp nuôi dưỡng, giáo dục con chung đến khi trưởng thành đủ 18 tuổi, không yêu cầu chị Trương Thị N phải cấp dưỡng nuôi con. Về điều kiện nuôi con anh M có đủ điều kiện vì từ khi ly thân đến nay anh M một mình tự nuôi con, chăm lo con ăn học đầy đủ không thiếu thốn gì.
Về tài sản chung anh Mè Văn M không yêu cầu giải quyết.
Quá trình giải quyết vụ án, bị đơn chị Trương Thị N không hợp tác nên không có văn bản trình bày ý kiến.
Ý kiến của đại diện Viện kiểm sát: Về việc tuân theo pháp luật: Trong quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa, Thẩm phán, Hội đồng xét xử và Thư ký phiên tòa đã tuân theo đúng các trình tự thủ tục tố tụng. Nguyên đơn thực hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ của họ; bị đơn không thực hiện quyền và nghĩa vụ của họ theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự. Về việc giải quyết vụ án: Đề nghị áp dụng các Điều 51, 56, 57, 81, 82, 83 Luật Hôn nhân và Gia đình. Về hôn nhân cho anh M được ly hôn với chị N. Về nuôi con: Anh M được quyền trực tiếp nuôi dưỡng con chung đến khi đủ 18 tuổi, chị N không phải cấp dưỡng nuôi con. Nguyên đơn phải chịu án phí ly hôn theo quy định của pháp luật.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án đã được xem xét, thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả trchị tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Về thủ tục tố tụng: Tại phiên tòa các đương sự đều vắng mặt. Tuy nhiên, nguyên đơn có đơn đề nghị xét xử vắng mặt, bị đơn đã được Toà án triệu tập hợp lệ lần thứ hai mà vẫn vắng mặt. Vì vậy, căn cứ Điều 227, 238 của Bộ luật Tố tụng dân sự, tiến hành xét xử vắng mặt tất cả những người tham gia tố tụng.
[2] Về quan hệ hôn nhân: Anh Mè Văn M và chị Trương Thị N, đăng ký kết hôn ngày 04/11/2016 tại Uỷ ban nhân dân xã H, huyện H, tỉnh Lạng Sơn, nên quan hệ hôn nhân là hợp pháp. Xét thấy, trong quá trình hôn nhân tồn tại cuộc sống vợ chồng thường xuyên cãi chửi, đánh nhau, từ tháng 02 năm 2018 đến nay vợ chồng sống ly thân không còn quan tâm giúp đỡ, tạo điều kiện cho nhau phát triển về mọi mặt, người nào chỉ biết bổn phận của người đó. Mâu thuẫn vợ chồng ở trên phù hợp với biên bản xác M ngày 26/7/2021 của Tòa án. Do đó, Hội đồng xét xử xét thấy, mâu thuẫn vợ chồng đã trầm trọng, cuộc sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được, không có khả năng hàn gắn đoàn tụ. Vì vậy, yêu cầu ly hôn của nguyên đơn là có căn cứ phù hợp với quy định tại khoản 1 Điều 56 của Luật Hôn nhân và Gia đình nên được chấp nhận.
[3] Về con chung: Anh Mè Văn M và chị Trương Thị N có 01 người con chung, cháu Mè K sinh ngày 25/11/2016. Xét về điều kiện nuôi con, từ khi ly thân anh M một mình nuôi con chung, quá trình giải quyết vụ án chị N không hợp tác, không có ý kiến nguyện vọng về việc được nuôi con. Do đó, Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu nuôi con của anh M. Về nghĩa vụ cấp dưỡng anh M không yêu cầu nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.
[4] Về tài sản chung: Anh Mè Văn M không yêu cầu giải quyết nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét.
[5] Xét thấy ý kiến của đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa là có căn cứ nên Hội đồng xét xử chấp nhận.
[6] Về án phí căn cứ khoản 4 Điều 147 của Bộ luật Tố tụng dân sự; điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội, anh Mè Văn M phải chịu 300.000 đồng án phí ly hôn, để nộp ngân sách Nhà nước.
[7] Quyền kháng cáo: Các đương sự có quyền kháng cáo bản án sơ thẩm theo quy định tại Điều 271, 273 của Bộ luật Tố tụng dân sự.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào khoản 1 Điều 56, Điều 81, Điều 82, Điều 83 của Luật Hôn nhân và Gia đình; khoản 4 Điều 147, Điều 227, Điều 238, Điều 271, Điều 273 của Bộ luật Tố tụng dân sự; điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội.
1. Về quan hệ hôn nhân: Anh Mè Văn M được ly hôn với chị Trương Thị N.
2. Về con chung: Anh Mè Văn M và chị Trương Thị N có 01 người con chung, cháu Mè K sinh ngày 25/11/2016, sau khi ly hôn anh Mè Văn M được quyền trực tiếp trông nom, chăm sóc, giáo dục, nuôi dưỡng cho đến khi đủ 18 tuổi. Chị Trương Thị N không phải cấp dưỡng nuôi con do anh Mè Văn M chưa yêu cầu.
Sau khi ly hôn, người không trực tiếp nuôi con có quyền thăm nom con, không ai được cản trở người đó thực hiện quyền này.
3. Về tài sản chung: Không yêu cầu giải quyết.
4. Về án phí: Anh Mè Văn M phải chịu 300.000 đồng (ba trăm nghìn đồng) án phí dân sự sơ thẩm để nộp ngân sách Nhà nước. Xác nhận anh Mè Văn M đã nộp 300.000 đồng án phí theo biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số: AA/2016/0002173 ngày 12 tháng 5 năm 2021, tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Hữu Lũng, tỉnh Lạng Sơn.
5. Về quyền kháng cáo: Các đương sự vắng mặt có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được bản án hoặc ngày bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.
Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.
Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con số 23/2021/HNGĐ-ST
Số hiệu: | 23/2021/HNGĐ-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Hữu Lũng - Lạng Sơn |
Lĩnh vực: | Hôn Nhân Gia Đình |
Ngày ban hành: | 09/09/2021 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về