Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con số 22/2022/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HẠ LONG, TỈNH QUẢNG NINH

BẢN ÁN 22/2022/HNGĐ-ST NGÀY 04/05/2022 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON

Ngày 04 tháng 5 năm 2022 tại phòng xử án Toà án nhân dân thành phố Hạ Long, tỉnh Quảng Ninh xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 594/2021/TLST-HNGĐ ngày 11 tháng 11 năm 2021 về việc "ly hôn, tranh chấp về nuôi con” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 18/2022/QĐXXST-HNGĐ ngày 18 tháng 3 năm 2022 và Quyết định hoãn phiên tòa số: 36/2022/QĐST- HNGĐ ngày 11 tháng 4 năm 2022 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: chị Phạm Thị M, sinh năm 1987; địa chỉ: tổ 2, khu 7, phường H, thành phố H1, tỉnh Quảng Ninh; có mặt.

2. Bị đơn: anh Đỗ Tiến D, sinh năm 1984; địa chỉ: tổ 2, khu 7, phường H, thành phố H1, tỉnh Quảng Ninh; vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong đơn khởi kiện đề ngày 11/10/2021, tại bản tự khai ngày 26/11/2021, trong quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn chị Phạm Thị M trình bày:

Về quan hệ hôn nhân: chị tự nguyện kết hôn với anh Đỗ Tiến D vào ngày 01/4/2005, đăng ký kết hôn tại UBND phường H, thành phố H1, tỉnh Quảng Ninh. Trước khi kết hôn chưa ai có vợ có chồng và có thời gian tìm hiểu nhau hơn ba năm trước khi tiến tới hôn nhân. Sau khi kết hôn vợ chồng về sống chung với nhau hòa thuận hạnh phúc, đến năm 2019 thì vợ chồng bắt đầu phát sinh mâu thuẫn, đến tháng 9/2020 thì vợ chồng mâu thuẫn đỉnh điểm. Nguyên nhân mâu thuẫn theo chị M là anh D nghi ngờ chị có quan hệ bên ngoài nên ghen tuông vô cớ dẫn đến hai vợ chồng hay xảy ra cãi vã, lâu dần sứt mẻ tình cảm. Hai vợ chồng cũng như gia đình hai bên của anh chị đã cố gắng hòa giải hàn gắn tình cảm cho anh chị nhưng không có kết quả. Vợ chồng sống ly thân với nhau từ tháng 6 năm 2021 đến nay, khi ly thân mỗi người sống một nơi, thời gian sống ly thân vợ chồng đã tìm nhiều biện pháp hàn gắn tình cảm nhưng không thành. Đến nay, chị xác định mâu thuẫn vợ chồng đã trầm trọng, tình cảm chị dành cho anh D không còn, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được nên yêu cầu Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn với anh Dũng.

Về con chung: chị và anh Đỗ Tiến D có 02 con chung là Đỗ Duy A, sinh ngày 04/5/2005 và Đỗ Ngọc Quỳnh N, sinh ngày 07/11/2011. Khi ly hôn, chị có nguyện vọng được trực tiếp nuôi dưỡng con chung Đỗ Ngọc Quỳnh N, còn con chung Đỗ Duy A từ khi còn nhỏ đều sống với ông bà nội (bố mẹ đẻ anh D) nên chị có nguyện vọng giao cho anh Đỗ Tiến D trực tiếp nuôi dưỡng để cháu được tiếp tục ở với ông bà nội theo nguyện vọng của cháu Đỗ Duy A; chị và anh D không phải cấp dưỡng nuôi con chung cho nhau.

Về tài sản chung: chị và anh Đỗ Tiến D có tài sản chung nhưng tự thỏa thuận, không yêu cầu tòa án giải quyết.

Trong quá trình giải quyết vụ án Tòa án đã tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng như thông báo thụ lý vụ án; giấy triệu tập; thông báo mở phiên họp tiếp cận công khai chứng cứ và hòa giải; quyết định gia hạn thời hạn chuẩn bị xét xử; thông báo kết quả phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ; quyết định đưa vụ án ra xét xử; quyết định hoãn phiên tòa theo đúng quy định của pháp luật cho anh Đỗ Tiến D, nhưng anh D không lên tòa để giải quyết vụ án.

Tại biên bản xác minh lập ngày 23/02/2022, bà Ngô Thị L, địa chỉ tổ 3b, khu 2, phường H2, thành phố H1, tỉnh Quảng Ninh (là mẹ đẻ của anh Đỗ Tiến D) cung cấp: về mâu thuẫn của chị M và anh D, gia đình hai bên nội ngoại đều biết và khuyên can các con về đoàn tụ nhưng không được. Đối với các giấy tờ của Tòa án gửi về cho anh D, bà L đều trực tiếp nhận, thông báo và chuyển lại cho anh D nhưng do anh D không muốn ly hôn chị M nên không đến Tòa án để làm việc. Chị M và anh D có hai người con là cháu Đỗ Duy A, sinh ngày 04/5/2005 và Đỗ Ngọc Quỳnh N, sinh ngày 07/11/2011. Từ bé, hai cháu đều được hai vợ chồng bà chăm sóc, hiện tại cháu Duy A đang ở với bà còn cháu Quỳnh N hiện đã về ở với mẹ cháu và vẫn thường xuyên về với hai vợ chồng ông bà.

Xác nhận của chính quyền địa phương (tại Biên bản xác minh ngày 09/01/2022 với ông Ngô Văn L1 – tổ trưởng tổ 2, khu 7, phường H, thành phố H1) thể hiện: chị M và anh D là công dân tại tổ 2, khu 7, phường H. Mâu thuẫn của anh chị tổ dân không nắm được cụ thể do anh chị không báo địa phương để tổ chức hòa giải cho anh chị. Hiện tại, chị M không còn ở chung cùng anh D.

Tòa án đã tiến hành lấy lời khai 02 (hai) con chung của chị M và anh D là cháu Đỗ Duy A và cháu Đỗ Ngọc Quỳnh N. Cháu Đỗ Duy A có nguyện vọng do từ bé cháu được ông bà nội chăm sóc nên cháu muốn được ở với bố để tiếp tục được ở với ông bà; cháu Đỗ Ngọc Quỳnh N có nguyện vọng được ở với mẹ.

Tại phiên tòa, nguyên đơn vẫn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện, đề nghị Tòa án giải quyết cho được ly hôn với anh D; về con chung đề nghị giao con chung Đỗ Ngọc Quỳnh N, sinh ngày 07/11/2011 cho chị M trực tiếp nuôi dưỡng, giao con chung Đỗ Duy A, sinh ngày 04/5/2005 cho anh D trực tiếp nuôi dưỡng, chị M và anh D không phải cấp dưỡng nuôi con chung.

Tại phiên toà, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hạ Long, tỉnh Quảng Ninh phát biểu ý kiến:

Về tố tụng: Thẩm phán, Hội đồng xét xử và thư ký phiên tòa đã thực hiện đúng các quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự. Nguyên đơn đã thực hiện đúng quyền và nghĩa vụ theo quy định của Điều 70, 71 Bộ luật Tố tụng dân sự. Bị đơn chưa thực hiện đúng theo quy định của Điều 70, 72 Bộ luật Tố tụng dân sự.

Về việc giải quyết vụ án: đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ Điều 56, 81, 82, 83 Luật Hôn nhân và Gia đình chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, xử cho chị Phạm Thị M được ly hôn với anh Đỗ Tiến D. Về con chung: giao con chung Đỗ Ngọc Quỳnh N, sinh ngày 07/11/2011 cho chị M trực tiếp nuôi dưỡng, giao con chung Đỗ Duy A, sinh ngày 04/5/2005 cho anh D trực tiếp nuôi dưỡng, chị M và anh D không phải cấp dưỡng nuôi con chung.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa, căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về thủ tục tố tụng:

Nguyên đơn khởi kiện vụ án hôn nhân và gia đình về việc “ly hôn, tranh chấp về nuôi con” đối với bị đơn thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân thành phố Hạ Long theo quy định tại khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật Tố tụng dân sự.

Về sự vắng mặt của bị đơn – anh Đỗ Tiến D: đối với bị đơn, sau khi thụ lý vụ án, Tòa án đã tống đạt hợp lệ các thủ tục tố tụng cho bị đơn theo quy định tại Chương X của Bộ luật Tố tụng dân sự như thông báo về việc thụ lý vụ án; giấy triệu tập; thông báo về phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải; thông báo kết quả phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ; quyết định gia hạn thời hạn chuẩn bị xét xử; quyết định đưa vụ án ra xét xử; quyết định hoãn phiên tòa cho bị đơn – anh Đỗ Tiến D bằng hình thức tống đạt thông qua dịch vụ thừa phát lại, đồng thời Tòa án cũng tiến hành niêm yết các thông báo, quyết định trên tại nơi cư trú và Uỷ ban nhân dân phường H, thành phố H1 nhưng anh D không đến tòa án để làm việc. Do anh Đỗ Tiến D vắng mặt tại phiên tòa lần thứ hai dù đã được triệu tập hợp lệ, Hội đồng xét xử căn cứ vào quy định tại điểm b khoản 2 Điều 227, khoản 3 Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự tiến hành xét xử vụ án vắng mặt anh Đỗ Tiến D.

[2] Về quan hệ hôn nhân: quan hệ hôn nhân giữa chị Phạm Thị M và anh Đỗ Tiến D là quan hệ hôn nhân hợp pháp, được pháp luật công nhận và bảo vệ.

Xét yêu cầu ly hôn của chị M, Hội đồng xét xử thấy: mâu thuẫn trong quan hệ hôn nhân giữa chị M và anh D xuất phát chủ yếu từ việc vợ chồng bất đồng quan điểm, không còn tin tưởng nhau, thường xuyên cãi vã dẫn đến tình cảm vợ chồng dần phai nhạt. Mặc dù những mâu thuẫn này vợ chồng đã cố gắng tự hòa giải nhưng không có kết quả, mâu thuẫn vợ chồng ngày càng trầm trọng hơn, vợ chồng đã sống ly thân từ tháng 6 năm 2021 đến nay, chị M đã chuyển ra ngoài sinh sống, từ khi sống ly thân gia đình hai bên đã tìm nhiều biện pháp hàn gắn tình cảm cho hai vợ chồng nhưng không có kết quả. Đến nay, chị M xác nhận tình cảm dành cho anh D không còn, không còn nguyện vọng tiếp tục cuộc sống chung vợ chồng với anh D.

Trong quá trình giải quyết vụ án, Tòa án đã gửi giấy triệu tập, thông báo hòa giải cho anh D mục đích hòa giải cho vợ chồng về đoàn tụ nhưng anh D đều không đến tòa làm việc, việc không đến này của anh D thể hiện anh D không có thiện chí hàn gắn tình cảm vợ chồng.

Đối chiếu với quy định tại Điều 56 của Luật Hôn nhân và Gia đình, Hội đồng xét xử thấy tình trạng hôn nhân giữa chị M và anh D là trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được, nên chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của chị M đối với anh D.

[3] Về con chung: chị M và anh D có 02 con chung là Đỗ Duy A, sinh ngày 04/5/2005 và Đỗ Ngọc Quỳnh N, sinh ngày 07/11/2011. Kể từ khi anh chị sống ly thân, con chung Đỗ Ngọc Quỳnh N ở với mẹ còn con chung Đỗ Duy A ở với bố mẹ đẻ của anh D. Chị M yêu cầu được trực tiếp nuôi con chung Đỗ Ngọc Quỳnh N, giao con chung Đỗ Duy A cho anh D trực tiếp nuôi dưỡng, yêu cầu này của chị M phù hợp với nguyện vọng của con chung Đỗ Ngọc Quỳnh N được ở với mẹ, con chung Đỗ Duy A được ở với bố. Mặc dù anh D không có quan điểm về việc nuôi con chung nhưng quá trình giải quyết vụ án Tòa án đã tiến hành lấy lời khai của mẹ đẻ anh D xác định được cháu Đỗ Duy A hiện đang ở với bố mẹ đẻ anh D, nguyện vọng của cháu Duy A muốn được ở với bố để tiếp tục được ở với ông bà nội. Căn cứ vào các Điều 81, 82, 83 Luật Hôn nhân và Gia đình, Hội đồng xét xử thấy có căn cứ chấp nhận yêu cầu về việc nuôi con chung của chị M, giao con chung Đỗ Ngọc Quỳnh N cho chị M trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc; giao con chung Đỗ Duy A cho anh D trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc.

Về vấn đề cấp dưỡng nuôi con chung: chị M không yêu cầu, anh D không có quan điểm thể hiện nên Hội đồng xét xử không xét.

[4] Về tài sản chung: chị M xác định vợ chồng có tài sản chung nhưng tự thỏa thuận, không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không xét.

[5] Về án phí: nguyên đơn phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.

[6] Đối với ý kiến của kiểm sát viên là có căn cứ pháp luật, phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào Điều 51; khoản 1 Điều 56, 81, 82, 83 Luật Hôn nhân và Gia đình; khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, khoản 4 Điều 147, điểm b khoản 2 Điều 227, khoản 3 Điều 228, Điều 273 Bộ luật Tố tụng dân sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu nộp quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên xử: chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.

1. Về quan hệ hôn nhân: chị Phạm Thị M được ly hôn với anh Đỗ Tiến D.

2. Về con chung: giao con chung Đỗ Duy A, sinh ngày 04/5/2005 cho anh Đỗ Tiến D trực tiếp trông nom, chăm sóc, giáo dục, nuôi dưỡng đến tuổi thành niên (đủ 18 tuổi). Giao con chung Đỗ Ngọc Quỳnh N, sinh ngày 07/11/2011 cho chị Phạm Thị M trực tiếp trông nom, chăm sóc, giáo dục, nuôi dưỡng đến tuổi thành niên (đủ 18 tuổi).

Chị M và anh D không phải cấp dưỡng nuôi con chung; có quyền, nghĩa vụ thăm nom con chung không ai được cản trở.

3. Về án phí: chị Phạm Thị M phải chịu 300.000 đồng tiền án phí dân sự sơ thẩm, được trừ vào số tiền tạm ứng án phí dân sự sơ thẩm đã nộp theo biên lai số 0000169 ngày 10/11/2021 của Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Hạ Long, tỉnh Quảng Ninh. Chị M đã nộp đủ án phí.

4. Về quyền kháng cáo: nguyên đơn có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án; bị đơn có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

161
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con số 22/2022/HNGĐ-ST

Số hiệu:22/2022/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Hạ Long - Quảng Ninh
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 04/05/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;