TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN AN BIÊN, TỈNH KIÊN GIANG
BẢN ÁN 21/2024/HNGĐ-ST NGÀY 29/03/2024 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON
Ngày 29 tháng 3 năm 2024, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện An Biên, tỉnh Kiên Giang xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 254/2023/TLST-HNGĐ ngày 30 tháng 10 năm 2023 về việc ly hôn, tranh chấp về nuôi con theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 24/2024/QĐXXST-HNGĐ ngày 19 tháng 02 năm 2024 và Quyết định hoãn phiên tòa số: 24/2024/QĐST-HNGĐ ngày 07 tháng 3 năm 2024, giữa các đương sự:
1. Nguyên đơn: Chị Trần Thị Y, sinh ngày 01 tháng 01 năm 1995 (vắng mặt);
2. Bị đơn: Anh Nguyễn Thanh P, sinh năm 1988 (vắng mặt);
Cùng địa chỉ: ấp XV, xã NA, huyện AB, tỉnh Kiên Giang.
NỘI DUNG VỤ ÁN
* Trong đơn khởi kiện ngày 15/4/2022, đơn yêu cầu giải quyết và xét xử vắng mặt và trong quá trình tố tụng, nguyên đơn chị Trần Thị Y trình bày và yêu cầu như sau:
Chị và anh Nguyễn Thanh P chung sống với nhau vào năm 2014, đến năm 2017 đăng ký kết hôn và được Ủy ban nhân dân xã NA cấp giấy chứng nhận kết hôn, thời gian chung sống chị và anh Nguyễn Thanh P có 01 người con chung Nguyễn Như Q, sinh ngày 30/10/2015 hiện nay đang sống chung với chị; về tài sản chung, chị và anh Nguyễn Thanh P không có tài sản chung. Về nợ, chị và anh Nguyễn Thanh P không có nợ người khác, người khác không nợ anh chị. Quá trình chung sống chị và anh Nguyễn Thanh P phát sinh nhiều mâu thuẫn, thường xuyên cự cãi bất hòa, hôn nhân không còn hạnh phúc do anh Nguyễn Văn Phùng không lo lắng cho vợ con mà thường xuyên đi chơi, ăn nhậu với bạn bè bỏ mặt vợ con nên chị và anh Nguyễn Thanh P sống ly thân từ tháng 4 năm 2022 cho đến nay. Chị thấy, chị và anh Nguyễn Thanh P không còn tình cảm vợ chồng, chị yêu cầu Tòa án giải quyết như sau: Về quan hệ hôn nhân, chị yêu cầu được ly hôn với anh Nguyễn Thanh P. Về quan hệ con chung khi ly hôn, chị yêu cầu được nuôi dưỡng người con chung tên Nguyễn Như Q, sinh ngày 30/10/2015 đến tròn 18 tuổi tự lao động sinh sống được theo nguyện vọng của con anh chị và chị không yêu cầu anh Nguyễn Thanh P cấp dưỡng nuôi con. Về tài sản chung và nợ, không có, chị không yêu cầu giải quyết, ngoài ra chị không yêu cầu gì khác.
* Tại Bản trình bày nguyện vọng ngày 21 tháng 11 năm 2023 của Nguyễn Như Q như sau:
Nguyễn Như Q là con của bà Trần Thị Y và ông Nguyễn Thanh P, cư trú tại: ấp XV, xã NA, huyện AB, tỉnh Kiên Giang, từ khi cha và mẹ của Nguyễn Như Q không còn chung sống với nhau thì Nguyễn Như Q sống chung với mẹ là bà Trần Thị Y. Nếu mẹ cha của Nguyễn Như Q ly hôn thì Nguyễn Như Q có nguyện vọng chung sống với mẹ là bà Trần Thị Y. Nguyễn Như Q cam kết chịu trách nhiệm về lời trình bày của mình.
* Tại Biên bản xác minh ngày 03 tháng 11 năm 2023 của Tòa án nhân dân huyện An Biên, tỉnh Kiên Giang về nguyên nhân mâu thuẫn và tình trạng hôn nhân:
Chị Trần Thị Y và anh Nguyễn Thanh P, cư trú tại: ấp XV, xã NA, huyện AB, tỉnh Kiên Giang chung sống mâu thuẫn giữa vợ chồng ra sao thì không rõ. Chị Trần Thị Y và anh Nguyễn Thanh P có 01 người con chung, hiện nay đang sống chung với chị Trần Thị Y.
* Bị đơn anh Nguyễn Thanh P: Sau khi thụ lý vụ án, Tòa án đã tống đạt các văn bản tố tụng hợp lệ cho anh Nguyễn Thanh P biết và ấn định thời gian để anh có ý kiến về việc chị Trần Thị Y khởi kiện ly hôn và tranh chấp nuôi con với anh, nhưng anh không có ý kiến gì và cũng không cung cấp tài liệu, chứng cứ gì để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho mình đối với yêu cầu khởi kiện ly hôn và nuôi con của chị Trần Thị Y nên Toà án tiến hành giải quyết vụ án theo thủ tục chung.
* Tài liệu, chứng cứ thu thập được có trong hồ sơ vụ án gồm: Căn cước công dân tên Trần Thị Y và sổ hộ khẩu (Bản phô tô); Giấy chứng nhận kết hôn chị Trần Thị Y và anh Nguyễn Thanh P số: 07/2017 ngày 24 tháng 01 năm 2017 của Ủy ban nhân dân xã NA, huyện An Biên, tỉnh Kiên Giang (Bản chính); Giấy khai sinh Nguyễn Như Q (Bản sao); Đơn xin xác nhận tình trạng cư trú ngày 15 tháng 4 năm 2022 của chị Trần Thị Y (Bản chính); Văn bản trình bày nguyện vọng ngày 21 tháng 11 năm 2023 của Nguyễn Như Q (Bản chính); Biên bản xác minh ngày 03 tháng 11 năm 2023 của Tòa án nhân dân huyện An Biên, tỉnh Kiên Giang (Bản chính).
* Tại phiên tòa:
Nguyên đơn chị Trần Thị Y gửi đơn yêu cầu giải quyết và xét xử vắng mặt. Bị đơn anh Nguyễn Thanh P vắng mặt đến lần thứ hai không có lý do.
Đại diện Viện kiểm sát phát biểu quan điểm:
- Về thủ tục tố tụng: Từ khi thụ lý vụ án cho đến khi đưa vụ án ra xét xử và tại phiên tòa hôm nay, Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân, Thư ký Tòa án thực hiện đúng các thủ tục tố tụng theo pháp luật tố tụng dân sự. Nguyên đơn thực hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ theo pháp luật luật tố tụng dân sự, có đơn yêu cầu xét xử vắng mặt. Bị đơn vắng mặt đến lần thứ hai không có lý do đề nghị Hội đồng xét xử vắng mặt theo quy định tại khoản 2 Điều 227, Điều 228 của Bộ luật tố tụng dân sự.
- Về nội dung vụ án: Xét đơn khởi kiện của chị Trần Thị Y yêu cầu được ly hôn với anh Nguyễn Thanh P và được nuôi dưỡng người con chung là có căn cứ chấp nhận nên đề nghị Hội đồng xét xử cho chị Trần Thị Y được ly hôn với anh Nguyễn Thanh P. Về quan hệ con chung, khi anh chị ly hôn giao người con chung của anh chị cho chị Trần Thị Y tiếp tục nuôi dưỡng theo nguyện vọng của con anh chị. Về cấp dưỡng nuôi con chị Trần Thị Y không yêu cầu nên đề nghị không xem xét. Về tài sản chung và nợ, chị Trần Thị Y tự xác định không có, không yêu cầu giải quyết đề nghị miễn xét.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Về thẩm quyền giải quyết vụ án: Nguyên đơn chị Trần Thị Y yêu cầu được ly hôn với bị đơn anh Nguyễn Thanh P và nuôi con. Nguyên đơn và bị đơn đều cư trú tại: ấp XV, xã NA, huyện AB, tỉnh Kiên Giang nên xác định đây là tranh chấp về hôn nhân và gia đình thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện An Biên, tỉnh Kiên Giang theo quy định tại khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35 và điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật tố tụng dân sự.
[2] Về thủ tục tố tụng: Sau khi thụ lý vụ án, Tòa án đã tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng cho anh Nguyễn Thanh P biết và ấn định thời gian để anh có ý kiến về việc chị Trần Thị Y khởi kiện yêu cầu được ly hôn và tranh chấp nuôi con với anh nhưng anh Nguyễn Thanh P không có ý kiến gì và cũng không cung cấp tài liệu, chứng cứ gì để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Toà án tổ chức và thông báo cho các bên đương sự để tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải, nhưng anh Nguyễn Thanh P vắng mặt đến lần thứ hai không có lý do. Như vậy, đây là thuộc trường hợp không tiến hành hoà giải được theo quy định tại khoản 1 Điều 207 của Bộ luật tố tụng dân sự nên Toà án quyết định đưa vụ án ra xét xử theo thủ tục chung, tống đạt quyết định đưa vụ án ra xét xử và Quyết định hoãn phiên tòa cho chị Trần Thị Y và anh Nguyễn Thanh P thì chị Trần Thị Y gửi đơn yêu cầu xét xử vắng mặt, anh Nguyễn Thanh P vẫn cố tình vắng mặt đến lần thứ hai không có lý do. Vì vậy, Toà án tiến hành xét xử vụ án vắng mặt chị Trần Thị Y và anh Nguyễn Thanh P theo quy định tại khoản 2 Điều 227, khoản 1 Điều 228, điểm b khoản 1 Điều 238 và Điều 241 của Bộ luật tố tụng dân sự.
[3] Về nội dung: Xét về quan hệ hôn nhân, chị Trần Thị Y và anh Nguyễn Thanh P chung sống với nhau vào năm 2014, đến năm 2017 đăng ký kết hôn tại cơ quan Nhà nước có thẩm quyền (Ủy ban nhân dân xã NA, huyện An Biên, tỉnh Kiên Giang là một trong những nơi anh chị cư trú) và được cấp giấy chứng nhận kết hôn số: 07/2017 ngày 24/01/2017, anh chị đảm bảo các điều kiện kết hôn khác theo quy định của pháp luật là quan hệ hôn nhân hợp pháp, được pháp luật công nhận theo quy định tại Điều 9 của Luật hôn nhân và gia đình.
Xét khởi kiện của chị Trần Thị Y được ly hôn với anh Nguyễn Thanh P, thời gian chị và anh Nguyễn Thanh P chung sống phát sinh mâu thuẫn, thường xuyên cự cãi bất hòa, hôn nhân không còn hạnh phúc do anh Nguyễn Văn Phùng không lo lắng cho vợ con mà thường xuyên đi chơi, ăn nhậu với bạn bè bỏ mặt vợ con nên chị và anh Nguyễn Thanh P sống ly thân từ tháng 4 năm 2022 cho đến nay. Chị thấy, chị và anh Nguyễn Thanh P không còn tình cảm vợ chồng và chị yêu cầu ly hôn với anh Nguyễn Thanh P nhưng anh Nguyễn Thanh P không có ý kiến yêu cầu gì, không quan tâm đến việc chị Trần Thị Y yêu cầu ly hôn với anh là vi phạm nghĩa vụ giữa vợ chồng thời gian dài, vợ chồng không chăm sóc, lo lắng lẫn nhau mà anh chị không có biện pháp hàn gắn để chung sống với nhau nên hôn nhân của anh chị đã lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được, trong quá trình giải quyết vụ án chị Trần Thị Y cương quyết yêu cầu được ly hôn với anh Nguyễn Thanh P. Do đó, Hội đồng xét xử chấp nhận đề nghị Kiểm sát viên và yêu cầu khởi kiện của chị Trần Thị Y, cho chị Trần Thị Y được ly hôn với anh Nguyễn Thanh P là phù hợp quy định tại khoản 1 Điều 51, Điều 56 của Luật hôn nhân và gia đình.
Về quan hệ con chung, chị Trần Thị Y và anh Nguyễn Thanh P có 01 người con chung tên Nguyễn Như Q, sinh ngày 30/10/2015. Khi ly hôn chị Trần Thị Y yêu cầu được tiếp tục nuôi dưỡng người con chung, anh Nguyễn Thanh P không có ý kiến yêu cầu gì, đồng thời con chung của anh chị từ khi anh chị ly thân đến nay chung sống với chị Trần Thị Y, đã thích nghi với cuộc sống hiện tại và có nguyện vọng chung sống với chị Trần Thị Y. Do đó, Hội đồng xét xử chấp nhận đề nghị của Kiểm sát viên, yêu cầu của chị Trần Thị Y và nguyện vọng của con anh chị, giao người con chung của anh chị tên Nguyễn Như Q, sinh ngày 30/10/2015 cho chị Trần Thị Y được tiếp tục nuôi dưỡng đến tròn 18 tuổi tự lao động sinh sống được là phù hợp quy định tại khoản 2 Điều 81 của Luật hôn nhân và gia đình.
Về cấp dưỡng nuôi con, chị Trần Thị Y không yêu cầu anh Nguyễn Thanh P cấp dưỡng nuôi con nên không xem xét.
Về tài sản chung và nợ, chị Trần Thị Y tự xác định, anh chị không có tài sản chung, chị Trần Thị Y cam kết anh chị không có nợ người khác, người khác không có nợ anh chị và chị không yêu cầu giải quyết nên không xem xét. Nếu sau này có phát sinh tranh chấp chia tài sản chung và nợ thì được xem xét giải quyết bằng vụ kiện khác.
[4] Về án phí: Nguyên đơn phải chịu án phí dân sự sơ thẩm trong vụ án ly hôn không phụ thuộc vào việc Tòa án chấp nhận hay không chấp nhận yêu cầu nhưng được khấu trừ vào tiền tạm ứng án phí đã nộp theo quy định tại khoản 4 Điều 147 của Bộ luật tố tụng dân sự; điểm a khoản 5 Điều 27 của Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí tòa án.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, khoản 4 Điều 147, khoản 1 Điều 207, khoản 2 Điều 227, khoản 1 Điều 228, điểm b khoản 1 Điều 238, Điều 241, Điều 266 và Điều 273 của Bộ luật tố tụng dân sự;
Căn cứ vào Điều 9, khoản 1 Điều 51, Điều 56, khoản 2 Điều 81, Điều 82 và Điều 83 của Luật hôn nhân và gia đình;
Căn cứ vào điểm a khoản 5 Điều 27 của Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Tuyên xử:
1. Về quan hệ hôn nhân: Cho chị Trần Thị Y được ly hôn với anh Nguyễn Thanh P.
2. Về quan hệ con chung: Giao người con chung của anh chị tên Nguyễn Như Q, sinh ngày 30/10/2015 cho chị Trần Thị Y được tiếp tục nuôi dưỡng đến tròn 18 tuổi tự lao động sinh sống được theo nguyện vọng của con anh chị và hiện nay đang chung sống với chị Trần Thị Y.
Sau khi ly hôn, người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở. Người không trực tiếp nuôi con lạm dụng việc thăm nom để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con thì người trực tiếp nuôi con có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom con của người không trực tiếp nuôi con.
3. Về cấp dưỡng nuôi con: Chị Trần Thị Y không yêu cầu anh Nguyễn Thanh P cấp dưỡng nuôi con nên không xem xét.
4. Về tài sản chung và nợ: Chị Trần Thị Y tự xác định, anh chị không có tài sản chung, chị Trần Thị Y cam kết anh chị không có nợ người khác, người khác không có nợ anh chị và chị không yêu cầu giải quyết nên không xem xét. Nếu sau này có phát sinh tranh chấp chia tài sản chung và nợ thì được xem xét giải quyết bằng vụ kiện khác.
5. Về án phí: Buộc chị Trần Thị Y phải chịu án phí dân sự sơ thẩm ly hôn là 300.000 đồng, nhưng được trừ vào tiền tạm ứng án phí đã nộp 300.000 đồng theo biên lai thu số 0008957 ngày 30 tháng 10 năm 2023 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện An Biên, tỉnh Kiên Giang. Chị Trần Thị Y đã nộp xong án phí dân sự sơ thẩm.
6. Về quyền kháng cáo: Đương sự vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án này trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được tống đạt hợp lệ.
Bản án 21/2024/HNGĐ-ST về ly hôn, tranh chấp nuôi con
Số hiệu: | 21/2024/HNGĐ-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện An Biên - Kiên Giang |
Lĩnh vực: | Hôn Nhân Gia Đình |
Ngày ban hành: | 29/03/2024 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về