Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con số 185/2022/HNGĐ-PT

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 185/2022/HNGĐ-PT NGÀY 21/04/2022 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON

Ngày 21 tháng 4 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh (số 26 đường Lê Thánh Tôn, phường Bến Nghé, Quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh) xét xử phúc thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số 71/2021/TLPT- HNGĐ ngày 30 tháng 12 năm 2021 về Ly hôn, tranh chấp nuôi con.

Do Bản án Hôn nhân và Gia đình sơ thẩm số 669/2021/HNGĐ-ST ngày 19 tháng 11 năm 2021 của Tòa án nhân dân huyện B, Thành phố Hồ Chí Minh bị kháng cáo.

Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số 773/2022/QĐPT - HNGĐ ngày 28 tháng 02 năm 2022 và Quyết định hoãn phiên tòa số 3353/2022/QĐPT-HNGĐ ngày 24 tháng 3 năm 2022, giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Bà Phạm Thị L, sinh năm: 1977 Địa chỉ: Thôn Đại Bình, xã Q, huyện N, tỉnh Quảng Nam.

Địa chỉ cư trú: xã V, huyện B, Thành phố Hồ Chí Minh. (có mặt)

- Bị đơn: Ông Hà Tiến V, sinh năm: 1971 Địa chỉ: Thôn Đ, xã Q, huyện N, tỉnh Quảng Nam.

Địa chỉ cư trú: xã V, huyện B, Thành phố Hồ Chí Minh.

Ông V ủy quyền (đối với phần con chung) cho ông Bùi Văn B, sinh năm 1964, ngụ tại số phường T, quận T, Thành phố Hồ Chí Minh làm đại diện. (có mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện ngày 26 tháng 11 năm 2020 và trong quá trình tố tụng, bà Phạm Thị L - nguyên đơn trình bày:

Bà và ông Hà Tiến V sau thời gian tìm hiểu đã tự nguyện kết hôn và sống chung với nhau từ năm 2005 (theo Giấy chứng nhận kết hôn số 62, Quyển số 01/2005 ngày 04/8/2005 của Ủy ban nhân dân xã Q, huyện S, tỉnh Quảng Nam);

ông V và bà L có 02 con chung tên Hà Ngọc Gia H, giới tính nam, sinh ngày 07/01/2006 và Hà Phạm Gia M, giới tính nữ, sinh ngày 01/6/2013.

Theo lời trình bày của nguyên đơn, sau khi kết hôn cuộc sống vợ chồng hạnh phúc đến năm 2013 thì phát sinh mâu thuẫn nguyên nhân do tính tình không hợp nhau, thường xuyên bất đồng từ những điều nhỏ nhặt, đặc biệt là lúc ông V đi làm xa nhà, mỗi khi đi làm về thường kiếm cớ gây chuyện, vu oan cho bà ngoại tình nên vợ chồng đã sống ly thân từ tháng 6/2019 đến nay.

Bà L cho rằng không thể hàn gắn tình cảm vợ chồng với ông V nên yêu cầu được ly hôn.

Về con chung: Bà L yêu cầu được trực tiếp nuôi dưỡng cả 02 con chung do 02 trẻ đang sống chung với bà đồng thời yêu cầu ông V cấp dưỡng nuôi con mỗi trẻ 4.000.000(bốn triệu) đồng/tháng. Trường hợp ông V chỉ cấp dưỡng nuôi trẻ Gia Huy 4.000.000 (bốn triệu) đồng/tháng và không cấp dưỡng nuôi trẻ Gia Linh thì bà L cũng đồng ý.

Tài sản chung: Bà và ông V tự thỏa thuận, không yêu cầu Tòa án xem xét, giải quyết.

Về nợ chung: Không có nên không yêu cầu Tòa án xem xét, giải quyết.

Ông Hà Tiến V – bị đơn trình bày: Ông thống nhất với lời trình bày của bà L về việc kết hôn và quá trình chung sống. Về nguyên nhân mâu thuẫn, ông V cho rằng ông có nghi ngờ bà L ngoại tình; bên cạnh đó, do cả hai không hợp nhau, bà L không có trách nhiệm, không lo cho con nên vợ chồng thường xuyên bất hòa không thể hàn gắn tình cảm vợ chồng nên ông đồng ý ly hôn.

Về con chung: Ông V yêu cầu được trực tiếp nuôi dưỡng trẻ Hà Phạm Gia M, giao trẻ Hà Ngọc Gia H cho bà L trực tiếp nuôi dưỡng; không bên nào phải cấp dưỡng nuôi con.

Trường hợp bà L được trực tiếp nuôi cả 02 con thì ông V chỉ đồng ý cấp dưỡng nuôi trẻ Gia Huy mỗi tháng 4.000.000 (bốn triệu) đồng, không cấp dưỡng nuôi trẻ Gia Linh.

Tài sản chung: Ông và bà L tự thỏa thuận, không yêu cầu Tòa án xem xét, giải quyết.

Về nợ chung: Không có nên không yêu cầu Tòa án xem xét, giải quyết.

Tại Bản án Hôn nhân và Gia đình sơ thẩm số 669/2021/HNGĐ-ST ngày 19 tháng 11 năm 2021, Tòa án nhân dân huyện B đã quyết định:

Căn cứ Điều 8, Điều 9, khoản 1 Điều 19, Điều 56, Điều 57, Điều 58, Điều 59, Điều 81, Điều 82, Điều 83, Điều 84, Điều 107, Điều 110, Điều 116, Điều 117, Điều 118 Luật Hôn nhân và Gia đình; Điều 357 Bộ luật dân sự;

- Về quan hệ hôn nhân: Bà Phạm Thị L được ly hôn với ông Hà Tiến V.

- Về con chung: Giao 02 con chung tên Hà Ngọc Gia H, giới tính nam, sinh ngày 07/01/2006 và Hà Phạm Gia M, giới tính nữ, sinh ngày 01/6/2013 cho bà L trực tiếp nuôi dưỡng. Ông V cấp dưỡng nuôi trẻ Gia H mỗi tháng 4.000.000 (bốn triệu) đồng, thi hành vào ngày 01 (một) dương lịch của tháng và bắt đầu thi hành từ ngày 01/12/2021 cho đến khi nghĩa vụ cấp dưỡng chấm dứt theo quy định tại Điều 118 Luật Hôn nhân và Gia đình.

Trường hợp ông V chậm thực hiện nghiã vụ cấp dưỡng thì phải trả lãi đối với số tiền chậm trả tương ứng với thời gian chậm trả theo quy định tại Điều 357 Bộ luật dân sự.

Tạm hoãn nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi trẻ Gia M đối với ông V do bà L chưa có yêu cầu.

Người không trực tiếp nuôi con có quyền thăm nom, chăm sóc, giáo dục con chung không ai được quyền ngăn cản.

Vì lợi ích của trẻ, theo yêu cầu của cha, mẹ, người thân thích, Cơ quan quản lý Nhà nước về gia đình, Cơ quan quản lý Nhà nước về trẻ em hoặc Hội Liên hiệp Phụ nữ, Tòa án có thể quyết định việc thay đổi người trực tiếp nuôi con hoặc mức cấp dưỡng nuôi con theo luật định.

Người trực tiếp nuôi con cùng các thành viên gia đình không được cản trở người không trực tiếp nuôi con trong việc thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con. Người không trực tiếp nuôi con lạm dụng việc thăm nom để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con thì người trực tiếp nuôi con có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom con của người đó.

- Về tài sản chung và nợ chung: Bà L và ông V không yêu cầu Tòa án giải quyết. Nếu có tranh chấp sẽ được xem xét, giải quyết bằng vụ án khác.

Ngoài ra, Tòa án cấp sơ thẩm còn tuyên nghĩa vụ chịu án phí và quyền kháng cáo.

Sau khi xét xử sơ thẩm, ngày 24/11/2021 và 01/12/2021 ông Hà Tiến V kháng cáo một phần Bản án sơ thẩm về phần con chung.

Tại phiên tòa phúc thẩm:

- Ông Hà Tiến V (do ông Bùi Văn B làm đại diện) giữ nguyên kháng cáo với lý do: Ông V hiện đang kinh doanh, buôn bán trầm hương rất thuận lợi, còn phía bà L đang nhận hàng may gia công, thu nhập không ổn định nên không đủ khả năng tài chính để nuôi con; bên cạnh đó, bà L đang phải thuê nhà trọ, diện tích chỉ 12m2 vừa làm hàng gia công, vừa là chỗ ăn ở cho cả 03 mẹ con nên rất chật hẹp. Do đó, đề nghị Hội đồng xét xử cấp phúc thẩm giao trẻ Gia L cho ông V trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng.

Đối với nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi trẻ Gia H: Ông V chỉ đồng ý cấp dưỡng mỗi tháng 2.000.000 (hai triệu) đồng.

Ngoài ra, đại diện của ông V còn cho rằng trong trường hợp Hội đồng xét xử cấp phúc thẩm không chấp nhận yêu cầu kháng cáo của ông V thì có thể giao 01 trong 02 con chung cho ông V trực tiếp nuôi dưỡng nhằm chia sẻ trách nhiệm chăm sóc con chung đồng thời tạo điều kiện cho bà L có thêm thời gian làm việc để tăng thêm thu nhập.

- Bà Phạm Thị L không rút Đơn khởi kiện, không đồng ý yêu cầu kháng cáo của ông Hà Tiến V, đề nghị giữ nguyên Bản án sơ thẩm.

Các đương sự không thỏa thuận được với nhau việc giải quyết vụ án.

- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh phát biểu quan điểm:

+ Về thủ tục tố tụng: Trong giai đoạn phúc thẩm, Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh đã tuân thủ đúng pháp luật tố tụng, gửi hồ sơ cho Viện Kiểm sát nghiên cứu đúng thời hạn luật định.

Tại phiên tòa, Hội đồng xét xử tuân thủ đúng nguyên tắc xét xử, đảm bảo cho các bên đương sự được phát biểu ý kiến, trình bày quan điểm và tranh luận; các đương sự đã thực hiện các quyền và nghĩa vụ của mình theo quy định.

+ Về hình thức: Ngày 19/11/2021, Tòa án nhân dân huyện B mở phiên tòa xét xử và tuyên án, ngày 24/11/2021 ông Hà Tiến V gửi đơn kháng cáo. Căn cứ Điều 273 Bộ luật tố tụng dân sự, kháng cáo của ông V còn trong thời hạn luật định nên hợp lệ.

+ Về nội dung kháng cáo:

Qua lời trình bày của 02 đương sự tại phiên tòa phúc thẩm đồng thời xem xét toàn bộ tài liệu, chứng cứ thể hiện tại hồ sơ, xét về điều kiện, hoàn cảnh của ông V và bà L thì cả 02 có điều kiện để nuôi con như nhau, tuy nhiên từ lúc vợ chồng không sống chung đến nay 02 trẻ Gia H và Gia L ở cùng với bà L đã ổn định, phát triển bình thường về thể chất và tinh thần; bên cạnh đó, 02 trẻ đều có nguyện vọng ở với bà L. Ngoài ra, trẻ Gia L là trẻ gái cần sự quan tâm, chăm sóc, dạy dỗ của mẹ nên cần thiết giao cho bà L tiếp tục nuôi dưỡng để tránh xáo trộn cuộc sống nhằm tạo điều kiện cho các con phát triển toàn diện về mọi mặt.

Về cấp dưỡng nuôi con: Việc cấp dưỡng nuôi con thể hiện trách nhiệm của cha, mẹ đối với con cái; dựa vào mức sinh hoạt chung thì mức cấp dưỡng 4.000.000 (bốn triệu) đồng/tháng là phù hợp với nhu cầu tối thiểu về ăn ở, sinh hoạt, học tập của trẻ nên việc ông V chỉ đồng ý cấp dưỡng nuôi trẻ Gia H mỗi tháng 2.000.000 (hai triệu) đồng là không có sở.

Từ những phân tích trên, đề nghị Hội đồng xét xử phúc thẩm căn cứ khoản 1 Điều 308 Bộ luật tố tụng dân sự, không chấp nhận kháng cáo của ông V, giữ nguyên Bản án sơ thẩm.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả hỏi, tranh luận tại phiên tòa Hội đồng xét xử nhận định:

[1]. Về hình thức: Đơn kháng cáo của ông Hà Tiến V phù hợp với quy định tại Điều 272 và Điều 273 Bộ luật tố tụng dân sự nên có cơ sở xem xét theo trình tự phúc thẩm.

[2]. Về nội dung kháng cáo:

Căn cứ Giấy chứng nhận kết hôn số 62, Quyển số 01/2005 ngày 04/8/2005 của Ủy ban nhân dân xã Q, huyện S, tỉnh Quảng Nam thì hôn nhân giữa bà Phạm Thị L và ông Hà Tiến V là hợp pháp. Tòa án cấp sơ thẩm căn cứ yêu cầu của bà L và sự đồng thuận của ông V đã quyết định cho cả hai được ly hôn, phần này các đương sự không kháng cáo và không bị kháng nghị nên phát sinh hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Xét kháng cáo của ông Hà Tiến V (do ông Bùi Văn B làm đại diện) yêu cầu được trực tiếp nuôi dưỡng trẻ Hà Phạm Gia M, Hội đồng xét xử nhận thấy: Đối với con chung, bà L và ông V đều có tình yêu thương con như nhau, đều muốn được trực tiếp chăm sóc và nuôi dưỡng; tuy nhiên, việc giao con cho ai trực tiếp nuôi cần xét đến hoàn cảnh thực tế của mỗi bên sau khi ly hôn để quyết định nhằm đảm bảo quyền lợi về mọi mặt cho trẻ.

- Xét về việc làm và thu nhập: Theo bà L và ông V khai thì cả hai đều có nghề nghiệp ổn định, mỗi người đều có việc làm và thu nhập hàng tháng từ 10.000.000 (mười triệu) đến 15.000.000 (mười lăm triệu) đồng.

- Về điều kiện chỗ ở và giờ giấc làm việc: Ông V và bà L đều có nơi ở ổn định và đang kinh doanh, buôn bán tại Thành phố Hồ Chí Minh.

Căn cứ vào lời trình bày của các đương sự cùng tài liệu có trong hồ sơ vụ án thể hiện: Về việc làm, thu nhập, chỗ ở thì cả ông V và bà L đều có điều kiện như nhau, đều đảm bảo được cuộc sống cho con đồng thời cũng tự chủ được thời gian trong việc đưa đón con đi học cũng như chăm sóc khi trẻ ở nhà, việc đề nghị được trực tiếp, chăm sóc con chung của hai xuất phát từ tình thương yêu của cha mẹ đối với con trẻ. Sau khi Tòa án cấp sơ thẩm xét xử vụ án, bà L tạm thời là người trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng cả 02 con chung, các con được mẹ chăm sóc tốt về thể chất và tinh thần, trong thời gian vừa qua không có vấn đề gì cần lưu ý; riêng đối với trẻ Gia L, xét về sự phát triển của 01 trẻ gái đã gần 09 tuổi đang trong giai đoạn phát triển về giới, về tâm sinh lý nên mẹ trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục sẽ phù hợp, thuận lợi hơn. Ông V cho rằng hiện tại bà L đang sống trong môi trường chật hẹp, điều kiện sinh hoạt khó khăn, tuy nhiên đây không phải là lý do để cho rằng bà L nuôi dạy con không tốt. Do đó, để đảm bảo được sự ổn định về mặt tâm lý, tránh xáo trộn cuộc sống xét thấy cần giữ nguyên Bản án sơ thẩm về vấn đề con chung, không chấp nhận yêu cầu kháng cáo ông V nhằm tạo điều kiện để các con phát triển toàn diện về mọi mặt, đây cũng là đề nghị của đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa phúc thẩm.

Về nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con: Tạm hoãn nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi Gia L đối với ông V do bà L không có yêu cầu.

Đối với nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi trẻ Gia H: Ông V kháng cáo chỉ đồng ý cấp dưỡng 2.000.000 (hai triệu) đồng/tháng, Hội đồng xét xử xét thấy hiện trẻ Gia H đang sống cùng với bà L ở Thành phố Hồ Chí Minh, dựa vào mức sinh hoạt trung bình tại địa phương nơi trẻ cư trú thì mức cấp dưỡng 4.000.000 (bốn triệu) đồng mỗi tháng để nuôi 01 trẻ như yêu cầu của bà L là hợp lý, đảm bảo các nhu cầu cần thiết về ăn, ở, học tập đồng thời phù hợp với thu nhập, khả năng thực tế của ông V. Căn cứ lời trình bày của ông V và của người đại diện thì thu nhập bình quân hàng tháng của ông V trên 10.000.000 (mười triệu) đồng, mức thu nhập này đối với người sinh sống ở Thành phố Hồ Chí Minh là không cao; tuy nhiên, ông V đề nghị mức cấp dưỡng nuôi trẻ Gia H mỗi tháng 2.000.000 (một triệu) đồng sẽ không đảm bảo được các chi phí tối thiểu cho việc nuôi dưỡng và học hành của con. Do đó, Tòa án cấp sơ thẩm buộc ông V cấp dưỡng nuôi trẻ Gia H mỗi tháng 4.000.000 (bốn triệu) đồng là phù hợp với quy định tại Điều 116 Luật Hôn nhân và Gia đình nên không có cơ sở chấp nhận yêu cầu kháng cáo, cần giữ nguyên Bản án sơ thẩm về mức cấp dưỡng nuôi con như đề nghị của bà L và của đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa phúc thẩm.

[3]. Về án phí: Do Hội đồng xét xử phúc thẩm không chấp nhận kháng cáo nên ông V phải chịu án phí dân sự phúc thẩm.

Vì các lẽ trên

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 1 Điều 308 Bộ luật tố tụng dân sự;

Căn cứ Điều 8, Điều 9, khoản 1 Điều 19, Điều 56, Điều 57, Điều 58, Điều 59, Điều 81, Điều 82, Điều 83, Điều 84, Điều 107, Điều 110, Điều 116, Điều 117, Điều 118 Luật Hôn nhân và Gia đình; Điều 357 Bộ luật dân sự;

Căn cứ Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, Tuyên xử:

1. Không chấp nhận yêu cầu kháng cáo của ông Hà Tiến V.

Giữ nguyên Bản án sơ thẩm số 669/2021/HNGĐ-ST ngày 19 tháng 11 năm 2021 của Tòa án nhân dân huyện B.

- Về quan hệ hôn nhân: Bà Phạm Thị L được ly hôn với ông Hà Tiến V. Giấy chứng nhận kết hôn số 62, Quyển số 01/2005 ngày 04/8/2005 của Ủy ban nhân dân xã Q, huyện S, tỉnh Quảng Nam không còn giá trị pháp lý.

- Về con chung: Giao 02 con chung tên Hà Ngọc Gia H, giới tính nam, sinh ngày 07/01/2006 và Hà Phạm Gia M, giới tính nữ, sinh ngày 01/6/2013 cho bà Loan trực tiếp nuôi dưỡng. Ông V cấp dưỡng nuôi trẻ Gia Huy mỗi tháng 4.000.000 (bốn triệu) đồng, thi hành vào ngày 01 (một) dương lịch của tháng và bắt đầu thi hành từ ngày 01/12/2021 cho đến khi nghĩa vụ cấp dưỡng chấm dứt theo quy định tại Điều 118 Luật Hôn nhân và Gia đình.

Trường hợp ông V chậm thục hiện nghĩa vụ cấp dưỡng thì phải trả lãi đối với số tiền chậm trả tương ứng với thời gian chậm trả theo quy định tại Điều 357 Bộ luật dân sự.

Tạm hoãn nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi trẻ Gia Linh đối với ông V do bà L chưa có yêu cầu.

Người không trực tiếp nuôi con có quyền thăm nom, chăm sóc, giáo dục con chung không ai được quyền ngăn cản.

Vì lợi ích của trẻ, theo yêu cầu của cha, mẹ, người thân thích, Cơ quan quản lý Nhà nước về gia đình, Cơ quan quản lý Nhà nước về trẻ em hoặc Hội Liên hiệp Phụ nữ, Tòa án có thể quyết định việc thay đổi người trực tiếp nuôi con hoặc mức cấp dưỡng nuôi con theo luật định.

Người trực tiếp nuôi con cùng các thành viên gia đình không được cản trở người không trực tiếp nuôi con trong việc thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con. Người không trực tiếp nuôi con lạm dụng việc thăm nom để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con thì người trực tiếp nuôi con có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom con của người đó.

- Về tài sản chung và nợ chung: Bà L và ông V không yêu cầu Tòa án giải quyết. Nếu có tranh chấp sẽ được xem xét, giải quyết bằng vụ án khác.

2. Về án phí:

- Án phí dân sự sơ thẩm:

+ Bà Phạm Thị L chịu 300.000 (ba trăm ngàn) đồng án phí dân sự sơ thẩm, được trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp theo biên lai số AA/2019/0080624 ngày 07/12/2020 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện B, Thành phố Hồ Chí Minh. Bà L không phải nộp thêm án phí sơ thẩm.

+ Ông Hà Tiến V phải chịu 300.000 (ba trăm ngàn) đồng án phí dân sự sơ thẩm đối với nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con định kỳ.

- Án phí dân sự phúc thẩm: Ông Hà Tiến V phải chịu 300.000 (ba trăm ngàn) đồng, được trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp theo biên lai số AA/2021/0040257 ngày 01/12/2021 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện B, Thành phố Hồ Chí Minh. Ông V không phải nộp thêm án phí phúc thẩm.

Bản án này được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại Điều 6, Điều 7 và Điều 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

3. Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

655
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con số 185/2022/HNGĐ-PT

Số hiệu:185/2022/HNGĐ-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 21/04/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;