Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con số 180/2022/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ BIÊN HÒA, TỈNH ĐỒNG NAI

BẢN ÁN 180/2022/HNGĐ-ST NGÀY 20/06/2022 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON

Ngày 20 tháng 6 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 277/2021/TLST- HNGĐ ngày 01 tháng 02 năm 2021 về việc: “Ly hôn, tranh chấp nuôi con”, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 128/2022/QĐXXST-HNGĐ ngày 28 tháng 4 năm 2022; Quyết định hoãn phiên tòa số: 290/2022/QĐHPT-HNGĐST ngày 27 tháng 5 năm 2022 giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Trần Thị Diễm T, sinh năm 1973.

Địa chỉ: Tổ A, khu phố B, phường C, thành phố D, tỉnh Đồng Nai.

Bị đơn: Ông Vũ Ngọc T1, sinh năm 1976.

Địa chỉ thường trú: Khu phố E, phường F, thành phố D, tỉnh Đồng Nai.

Chỗ ở hiện nay: Tổ A, khu phố B, phường C, thành phố D, tỉnh Đồng Nai.

(Bà T, ông T1 vắng mặt tại phiên tòa)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện, các bản tự khai, nguyên đơn bà Trần Thị Diễm T trình bày:

- Về quan hệ hôn nhân: Bà và ông Vũ Ngọc T1 tự nguyện chung sống với nhau từ năm 2002, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân phường F, thành phố D, tỉnh Đồng Nai. Bà và ông T1 chung sống hạnh phúc được thời gian đầu, sau đó đến đầu năm 2018 thì xảy ra mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn là do bất đồng quan điểm sống về tình cảm và kinh tế gia đình. Năm 2018, bà đã nộp đơn xin ly hôn nhưng đã rút đơn để hàn gắn nhưng sau đó vẫn không thể đoàn tụ được. Đến nay, bà và ông T1 có nhiều mâu thuẫn không thể giải quyết được. Mâu thuẫn giữa bà và ông T1 ngày càng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Vì vậy, bà yêu cầu Tòa án giải quyết cho bà được ly hôn với ông T1.

- Về con chung: Trong thời gian sống chung, bà và ông T1 có 02 con chung là các cháu Vũ Trần Nhật T2, sinh ngày 27 tháng 8 năm 2002 và Vũ Trần Nhật P, sinh ngày 04 tháng 6 năm 2008. Đối với cháu T2 đã trưởng thành và đủ khả năng lao động nên không yêu cầu Tòa án giải quyết. Khi ly hôn, bà yêu cầu được trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục cháu P và không yêu cầu ông T1 cấp dưỡng nuôi con chung.

Trong quá trình giải quyết vụ án, bà thay đổi ý kiến đồng ý để ông T1 trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục cháu P và bà không cấp dưỡng nuôi con chung.

- Về tài sản chung: Bà và ông T1 tự thỏa thuận, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

- Về nợ chung: Bà và ông T1 không có nợ chung.

Theo bản tự khai, bị đơn ông Vũ Ngọc T1 trình bày:

- Về quan hệ hôn nhân: Ông và bà Trần Thị Diễm T xây dựng gia đình với nhau vào năm 2002, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân phường F, thành phố D, tỉnh Đồng Nai, trên cơ sở cả hai cùng tự nguyện. Trong quá trình chung sống, vợ chồng có mâu thuẫn nhưng chỉ là những mâu thuẫn nhỏ. Ông thấy mâu thuẫn phát sinh giữa hai vợ chồng chưa trầm trọng đến mức độ phải ly hôn. Vì vậy, bà T yêu cầu ly hôn với ông thì ông không đồng ý. Ông không muốn các con thiếu đi tình thương của cha hoặc mẹ nếu ly hôn.

- Về con chung: Trong thời gian sống chung, ông và bà T có 02 con chung là các cháu Vũ Trần Nhật T2, sinh ngày 27 tháng 8 năm 2002 và Vũ Trần Nhật P, sinh ngày 04 tháng 6 năm 2008. Nếu Tòa án giải quyết cho bà T được ly hôn thì ông yêu cầu được nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục cháu P cho đến tuổi trưởng thành và không yêu cầu bà T cấp dưỡng nuôi con chung. Đối với cháu T2 đã trưởng thành nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.

- Về tài sản chung: Ông và bà T tự thỏa thuận, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

- Về nợ chung: Ông và bà T không có nợ chung.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai phát biểu quan điểm tại phiên tòa:

- Về thủ tục tố tụng: Thẩm quyền, xác định tư cách đương sự, quan hệ pháp luật và việc xác minh, thu thập chứng cứ, giao nhận các văn bản tố tụng đã thực hiện đúng theo quy định; Quyền và lợi ích hợp pháp của các đương sự được bảo đảm theo quy định của pháp luật. Về việc tuân theo pháp luật tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án của Thẩm phán, Hội đồng xét xử; việc chấp hành pháp luật của người tham gia tố tụng đã thực hiện đúng theo các quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự.

- Về quan điểm giải quyết vụ án:

+ Về quan hệ hôn nhân: Bà Trần Thị Diễm T và ông Vũ Ngọc T1 tự nguyện tìm hiểu, đăng ký kết hôn và được cấp Giấy chứng nhận đăng ký kết hôn nên hôn nhân giữa bà T và ông T1 là hợp pháp.

Theo lời khai của bà T thì vợ chồng bà chung sống hạnh phúc được thời gian đầu, sau đó đến đầu năm 2018 thì xảy ra mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn là do bất đồng quan điểm sống về tình cảm và kinh tế gia đình. Năm 2018, bà đã nộp đơn xin ly hôn nhưng đã rút đơn để hàn gắn nhưng sau đó vẫn không thể đoàn tụ được. Đến nay, bà và ông T1 có nhiều mâu thuẫn không thể giải quyết được. Mâu thuẫn giữa bà và ông T1 ngày càng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được nên bà làm đơn yêu cầu ly hôn với ông T1.

Ông T1 cho rằng trong quá trình chung sống, vợ chồng có mâu thuẫn nhưng chỉ là những mâu thuẫn nhỏ. Ông thấy mâu thuẫn phát sinh giữa hai vợ chồng chưa trầm trọng đến mức độ phải ly hôn. Vì vậy, bà T yêu cầu ly hôn với ông thì ông không đồng ý.

Theo hồ sơ thể hiện, năm 2018, bà T đã nộp đơn ly hôn với ông T1 ra Tòa án nhưng sau đó rút đơn để hàn gắn tình cảm vợ chồng. Tuy nhiên, do không thể hàn gắn tình cảm vợ chồng nên bà T đã nộp lại đơn yêu cầu ly hôn với ông T1. Bên cạnh đó, ông T1 trình bày cho rằng không muốn ly hôn nhưng trong quá trình giải quyết vụ án ông T1 không tham gia các buổi làm việc, hòa giải và cũng không đưa ra được phương án để hòa giải đoàn tụ hai vợ chồng. Xét thấy hạnh phúc gia đình phải đến từ hai phía, do cả 02 vợ chồng cùng vun đắp. Mặc dù, ông T1 không muốn ly hôn nhưng bà T đã không còn tình cảm và mong muốn ly hôn với ông T1.

Như vậy, có thể thấy mâu thuẫn vợ chồng giữa bà T và ông T1 là có thật, đã lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể k o dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Căn cứ theo quy định tại Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014, cần chấp nhận yêu cầu khởi kiện về việc ly hôn của bà T đối với ông T1.

+ Về con chung: Bà T và ông T1 có 02 con chung là các cháu Vũ Trần Nhật T2, sinh ngày 27 tháng 8 năm 2002 và Vũ Trần Nhật P, sinh ngày 04 tháng 6 năm 2008. Đối với cháu Vũ Trần Nhật T2 đã đủ tuổi trưởng thành, các đương sự không yêu cầu Tòa án giải quyết nên không đặt ra xem xét, giải quyết. Đối với cháu Vũ Trần Nhật P, theo đơn khởi kiện, bà T có nguyện vọng nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục cháu P, không yêu cầu ông T1 cấp dưỡng nuôi con chung. Tuy nhiên, trong quá trình giải quyết vụ án, bà T đã thay đổi ý kiến nhường quyền nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục cháu P cho ông T1 và bà không cấp dưỡng nuôi con chung. Điều này cũng phù hợp với nguyện vọng được nuôi dưỡng cháu P và không yêu cầu bà T cấp dưỡng nuôi con của ông T1. Do đó, cần ghi nhận ý kiến của các đương sự, giao cháu P cho ông T1 trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục và bà T tạm thời không phải cấp dưỡng nuôi con chung.

+ Về tài sản chung: Bà T và ông T1 xác định tự thỏa thuận, không yêu cầu Tòa án giải quyết nên không đặt ra xem xét, giải quyết.

+ Về nợ chung: Bà T và ông T1 cam kết không có nợ chung nên không đặt ra xem xét, giải quyết.

+ Về án phí: Bà T phải chịu án phí sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về thủ tục tố tụng:

- Bà Trần Thị Diễm T có đơn yêu cầu ly hôn với ông Vũ Ngọc T1, địa chỉ thường trú: Khu phố E, phường F, thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai; chỗ ở hiện nay: Tổ A, khu phố B, phường C, thành phố D, tỉnh Đồng Nai và yêu cầu Tòa án xác định người trực tiếp nuôi con chung khi ly hôn. Do đó, bà T được xác định là nguyên đơn, ông T1 được xác định là bị đơn trong vụ án; quan hệ tranh chấp được xác định là “Ly hôn, tranh chấp nuôi con”; vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân thành phố Biên Hòa.

- Nguyên đơn bà Trần Thị Diễm T đã có đơn xin xét xử vắng mặt; bị đơn ông Vũ Ngọc T1 đã được Tòa án triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai nhưng vẫn vắng mặt nên Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt bà T, ông T1 theo quy định tại Điều 227, Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015.

[2] Xét yêu cầu khởi kiện:

[2.1] Về quan hệ hôn nhân: Bà T và ông T1 đã đăng ký kết hôn tự nguyện, được Ủy ban nhân dân phường F, thành phố D, tỉnh Đồng Nai cấp Giấy chứng nhận kết hôn số 75 ngày 31 tháng 5 năm 2002 nên được xác định là hôn nhân hợp pháp theo quy định tại Điều 8, Điều 9 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014.

Xét mâu thuẫn vợ chồng giữa bà T và ông T1 là có thật. Do mâu thuẫn về tình cảm nên năm 2018, bà T đã nộp đơn ly hôn ra Tòa án nhưng sau đó đã rút đơn để hàn gắn tình cảm vợ chồng. Tuy nhiên, do không thể hàn gắn tình cảm vợ chồng nên bà T đã nộp lại đơn yêu cầu ly hôn với ông T1. Ông T1 không đồng ý ly hôn với bà T nhưng trong suốt quá trình giải quyết vụ án, ông T1 không tham gia các buổi làm việc, hòa giải và không đưa ra phương án hàn gắn, hòa giải để hai vợ chồng đoàn tụ. Bên cạnh đó, bà T kiên quyết ly hôn, không mong muốn được hàn gắn với ông T1. Theo Điều 19 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 quy định: “1. Vợ chồng có nghĩa vụ thương yêu, chung thủy, tôn trọng, quan tâm, chăm sóc, giúp đỡ nhau, cùng nhau chia sẻ, thực hiện các công việc trong gia đình. 2. Vợ chồng có nghĩa vụ sống chung với nhau”. Như vậy, bà T và ông T1 không còn thực hiện quyền, nghĩa vụ của vợ chồng đối với nhau, không cùng mục đích xây dựng gia đình hạnh phúc. Vì vậy, Hội đồng xét xử xét thấy việc bà T khởi kiện yêu cầu ly hôn với ông T1 là có căn cứ chấp nhận.

[2.2] Về con chung: Bà T và ông T1 có 02 con chung là các cháu Vũ Trần Nhật T2, sinh ngày 27 tháng 8 năm 2002 và Vũ Trần Nhật P, sinh ngày 04 tháng 6 năm 2008. Đối với cháu Vũ Trần Nhật T2 đã đủ tuổi trưởng thành, các đương sự không yêu cầu Tòa án giải quyết nên không đặt ra xem xét, giải quyết. Đối với cháu Vũ Trần Nhật P, theo đơn khởi kiện, bà T có nguyện vọng nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục cháu P, không yêu cầu ông T1 cấp dưỡng nuôi con chung. Tuy nhiên, trong quá trình giải quyết vụ án, bà T đã thay đổi ý kiến nhường quyền nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục cháu P cho ông T1 và bà không cấp dưỡng nuôi con chung. Điều này cũng phù hợp với nguyện vọng được nuôi dưỡng cháu P và không yêu cầu bà T cấp dưỡng nuôi con chung của ông T1. Do đó, cần ghi nhận ý kiến của các đương sự, giao cháu P cho ông T1 nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục và bà T tạm thời không phải cấp dưỡng nuôi con chung.

[2.3] Về tài sản chung: Bà T và ông T1 xác định tự thỏa thuận, không yêu cầu Tòa án giải quyết nên không đặt ra xem xét, giải quyết.

[2.4] Về nợ chung: Bà T và ông T1 cam kết không có nợ chung nên không đặt ra xem xét, giải quyết.

[3] Về án phí: Bà T phải chịu án phí ly hôn sơ thẩm theo quy định.

[4] Quan điểm của Đại diện Viện Kiểm sát nhân dân thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử và các tài liệu, chứng cứ có tại hồ sơ nên cần chấp nhận.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 1 Điều 28, Điều 35, Điều 39, Điều 147, Điều 266 và Điều 273 Bộ luật tố tụng dân sự;

Áp dụng các Điều 8, 9, 19, 51, 56, 81, 82, 83, 84 của Luật hôn nhân và gia đình năm 2014;

Áp dụng khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý, sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên xử:

1. Về quan hệ hôn nhân: Chấp nhận yêu cầu ly hôn của nguyên đơn bà Trần Thị Diễm T đối với bị đơn ông Vũ Ngọc T1.

2. Về con chung: Đối với cháu Vũ Trần Nhật T2, sinh ngày 27 tháng 8 năm 2002 đã đủ tuổi trưởng thành, các đương sự không yêu cầu Tòa án giải quyết nên không đặt ra xem xét, giải quyết. Giao cháu Vũ Trần Nhật P, sinh ngày 04 tháng 6 năm 2008 cho ông Vũ Ngọc T1 trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc và giáo dục.

Về cấp dưỡng nuôi con chung: Bà T tạm thời không phải cấp dưỡng nuôi con chung.

Sau khi ly hôn, người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở. Vì lợi ích của con, trong trường hợp có yêu cầu, Tòa án có thể quyết định việc thay đổi người trực tiếp nuôi con, mức cấp dưỡng nuôi con.

3. Về tài sản chung: Các đương sự xác định tự thỏa thuận, không yêu cầu Tòa án giải quyết nên không đặt ra xem xét, giải quyết.

4. Về nợ chung: Các đương sự xác định không có nên không đặt ra xem xét, giải quyết.

5. Về án phí: Bà Trần Thị Diễm T phải nộp 300.000đ (ba trăm nghìn đồng) án phí ly hôn sơ thẩm nhưng được trừ vào tiền tạm ứng án phí bà T đã nộp theo biên lai thu tiền tạm ứng án phí số 0009972 ngày 21 tháng 01 năm 2021 của Chi cục Thi hành án Dân sự thành phố Biên Hòa. Bà T đã nộp xong.

6. Trường hợp quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 9 Luật thi hành án dân sự và các điều 7, 7a, 7b Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật thi hành án dân sự năm 2014; Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

7. Các đương sự có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc kể từ ngày bản án được niêm yết theo đúng quy định của pháp luật.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

87
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con số 180/2022/HNGĐ-ST

Số hiệu:180/2022/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Biên Hòa - Đồng Nai
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 20/06/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;