Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con số 17/2022/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN K, THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG

BẢN ÁN 17/2022/HNGĐ-ST NGÀY 25/05/2022 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON

Ngày 25 tháng 5 năm 2022, tại trụ sở Toà án nhân dân huyện K xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 10/2022/TLST-HNGĐ, ngày 09 tháng 02 năm 2022 về “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 15/2022/QĐXX-ST ngày 28 tháng 4 năm 2022 và Quyết định hoãn phiên tòa số: 09/2022/QĐST-HNGĐ ngày 17 tháng 5 năm 2022 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Chị Nguyễn Thị T, sinh năm 1983; địa chỉ cư trú: Thôn X, xã N, huyện K, thành phố Hải Phòng; Có mặt tại phiên tòa.

- Bị đơn: Anh Lương Văn Đ, sinh năm 1982; địa chỉ cư trú: Thôn X, xã N, huyện K, thành phố Hải Phòng; Vắng mặt nhưng đã được triệu tập hợp lệ.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong đơn xin ly hôn ngày 19/01/2022 và bản tự khai ngày 14/02/2022 chị T trình bày: Chị tự nguyện kết hôn với anh Lương Văn Đ thời gian năm 2008, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã N, huyện K. Nói chung vợ chồng sống hạnh phúc được khoảng 13 năm. Tuy Nên trong quá trình sống chung mâu thuẫn vợ chồng phát sinh từ tháng 10/2021 do phong cách sống không còn phù hợp, nghi ngờ nhau trong quan hệ bạn bè xã hội, không thống nhất trong làm ăn kinh tế. Vợ chồng thường xuyên xảy ra đánh cãi nhau. Mặc dù đã được gia đình, thôn xóm hòa giải Nều lần để vợ chồng trở lại sống đoàn tụ nhưng không thành. Dù sống chung một nhà nhưng không ai quan tâm đến cuộc sống chung. Do tình trạng hôn nhân ngày càng trầm trọng, cuộc sống chung không thể kéo dài, chị xin ly hôn anh Đ.

Về con chung: Có 03 con là Lương Thùy N, sinh ngày 26/3/2008; Lương Trọng C, sinh ngày 05/7/2014 và Lương Trọng Quyết, sinh ngày 15/9/2021; hiện cả 03 con đang do anh chị nuôi dưỡng. Chị xin tiếp tục nuôi dưỡng cháu N và cháu Q, nhất trí để anh Đ tiếp tục nuôi dưỡng cháu C đến khi cả 03 con đủ 18 tuổi (trên cơ sở nguyện vọng của cháu N và cháu C). Nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con; giữa chị T và anh Đ thỏa thuận tự giao nhận với nhau, nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Về tài sản, công nợ: Không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Anh Lương Văn Đ trình bày tại biên bản lấy lời khai của đương sự ngày 28/3/2022: Thống nhất với chị T về thời gian kết hôn, thời gian vợ chồng chung sống hạnh phúc. Mâu thuẫn vợ chồng phát sinh từ năm 2021 do phong cách sống không còn phù hợp, vợ chồng có hiểu lầm nghi ngờ nhau trong quan hệ bạn bè xã hội, không thống nhất trong làm ăn kinh tế. Vợ chồng thường xuyên xảy ra cãi mắng nhau. Mặc dù đã được gia đình, thôn xóm hòa giải Nều lần để vợ chồng trở lại sống đoàn tụ nhưng không thành. Nay anh đồng ý vợ chồng sống ly thân nhưng không đồng ý ly hôn, anh xin đoàn tụ để vợ chồng nuôi dạy con chung.

Về con chung: Có 03 con là Lương Thùy N, sinh ngày 26/3/2008; Lương Trọng C, sinh ngày 05/7/2014 và Lương Trọng Q, sinh ngày 15/9/2021; hiện cả 03 con đang do anh chị nuôi dưỡng. Nếu chị T kiên quyết ly hôn thì anh xin tiếp tục nuôi dưỡng cháu C, nhất trí để chị T tiếp tục nuôi dưỡng cháu N và cháu Q đến khi cả 03 con đủ 18 tuổi (trên cơ sở nguyện vọng của cháu N và cháu C). Nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con; giữa anh Đ và chị T thỏa thuận tự giao nhận với nhau, nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Về tài sản, công nợ: Không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện K phát biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật tố tụng của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa và của người tham gia tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án kể từ khi thụ lý cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án và phát biểu ý kiến về việc giải quyết vụ án:

Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa đã thực hiện đúng pháp luật tố tụng dân sự trong quá trình giải quyết vụ án.

Nguyên đơn chấp hành đầy đủ các quy định của pháp luật tố tụng dân sự trong quá trình giải quyết vụ án.

Bị đơn không chấp hành đầy đủ nghĩa vụ quy định tại khoản 15, 16 Điều 70, khoản 1 Điều 72 Bộ luật Tố tụng dân sự trong quá trình giải quyết vụ án.

Về việc giải quyết vụ án:

Căn cứ hồ sơ vụ án, các tài liệu, chứng cứ đã được Hội đồng xét xử xem xét công khai và kết quả tranh tụng tại phiên tòa xét thấy:

1. Về tố tụng: Anh Đ là bị đơn vắng mặt tại phiên tòa, nhưng đã được triệu tập hợp lệ lần thứ hai. Căn cứ vào điểm b khoản 2 Điều 227; khoản 3 Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự; đề nghị Hội đồng xét xử xét xử vắng mặt bị đơn theo quy định của pháp luật.

2. Về quan hệ hôn nhân: Chị T và anh Đ tự nguyện kết hôn năm 2008, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã N, huyện K. Vợ chồng chung sống hạnh phúc đến cuối năm 2021 thì phát sinh mâu thuẫn đến nay ngày càng trầm trọng, tình cảm không còn, cuộc sống chung không thể kéo dài. Dù sống chung một nhà nhưng không ai quan tâm đến cuộc sống chung. Nay chị T xin ly hôn, anh Đ không đồng ý ly hôn mà xin đoàn tụ để nuôi dạy con chung. Xét yêu cầu của hai bên thấy rằng tình trạng hôn nhân của vợ chồng rất trầm trọng, tình cảm không còn, cuộc sống chung không thể kéo dài; Nên chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của chị T là phù hợp. Căn cứ khoản 1 Điều 51, khoản 1 Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình; đề nghị Hội đồng xét xử: Xử cho chị Nguyễn Thị T được ly hôn anh Lương Văn Đ.

3. Về con chung: Anh chị có 03 con chung Lương Thùy N, sinh ngày 26/3/2008; Lương Trọng C, sinh ngày 05/7/2014 và Lương Trọng Q, sinh ngày 15/9/2021, hiện đang do anh chị nuôi dưỡng. Nay anh chị đều thống nhất nếu ly hôn: Giao cháu N và cháu Q cho chị T nuôi dưỡng, giao cháu C cho anh Đ nuôi dưỡng đến khi cả 03 cháu đủ 18 tuổi; đồng thời cháu N có nguyện vọng được ở với chị T, cháu C có nguyện vọng được ở với anh Đ; cần chấp nhận. Về nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con, chị T và anh Đ đều đủ điều kiện kinh tế và chỗ ở ổn định để nuôi con, không yêu cầu Tòa án giải quyết nên không đặt ra xem xét giải quyết Căn cứ vào Điều 81, 82, 83 Luật Hôn nhân và gia đình; đề nghị Hội đồng xét xử: Giao cháu Lương Thùy N, sinh ngày 26/3/2008 và Lương Trọng Q, sinh ngày 15/9/2021 cho chị T nuôi dưỡng; Giao cháu Lương Trọng C, sinh ngày 05/7/2014 cho anh Đ nuôi dưỡng đến khi cả 03 cháu đủ 18 tuổi hoặc có sự thay đổi khác theo quy định của pháp luật. Về nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con, chị T và anh Đ đều đủ điều kiện kinh tế và chỗ ở ổn định để nuôi con, không yêu cầu Tòa án giải quyết nên không đặt ra xem xét giải quyết.

4. Về tài sản, công nợ: Đều không yêu cầu Tòa án giải quyết, nên không xem xét giải quyết.

5. Về án phí: Căn cứ khoản 4 Điều 147 Bộ luật Tố tụng dân sự; điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án: Chị T phải chịu 300.000đ án phí ly hôn sơ thẩm.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về tố tụng: Anh Đ là bị đơn vắng mặt tại phiên tòa, nhưng đã được triệu tập hợp lệ lần thứ hai. Căn cứ vào điểm b khoản 2 Điều 227; khoản 3 Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự, Tòa án xét xử vắng mặt bị đơn theo quy định của pháp luật.

[2] Về quan hệ hôn nhân: Chị T tự nguyện kết hôn với anh Đ năm 2008, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã N, huyện K. Đánh giá chung vợ chồng sống hạnh phúc được khoảng 13 năm. Song trong thời gian sống chung mâu thuẫn phát sinh từ cuối năm 2021 do phong cách sống không còn phù hợp, nghi ngờ nhau trong quan hệ bạn bè xã hội, không thống nhất trong làm ăn kinh tế. Vợ chồng thường xuyên xảy ra cãi mắng nhau. Mặc dù đã được gia đình, thôn xóm hòa giải Nều lần để vợ chồng trở lại sống đoàn tụ nhưng không thành. Dù sống chung một nhà nhưng không ai quan tâm đến cuộc sống chung. Nay chị T xin ly hôn, còn anh Đ xin đoàn tụ. Nhưng qua điều tra xác minh theo yêu cầu của đương sự tại địa phương cho biết: Mâu thuẫn vợ chồng xảy ra từ cuối năm 2021 đến nay ngày càng trầm trọng, tình cảm không còn, cuộc sống chung không thể kéo dài, dù sống chung một nhà nhưng không ai quan tâm đến cuộc sống chung. Do đó yêu cầu xin ly hôn của chị T là có cơ sở chấp nhận; nên xử cho chị T được ly hôn anh Đ là phù hợp.

[3] Về con chung: Anh chị có 03 con chung là Lương Thùy N, sinh ngày 26/3/2008; Lương Trọng C, sinh ngày 05/7/2014 và Lương Trọng Q, sinh ngày 15/9/2021, hiện cả 03 cháu đang do cả hai anh chị nuôi dưỡng. Nay anh chị đều thống nhất nếu ly hôn, giao cháu N và cháu Q cho chị T nuôi dưỡng, giao cháu C cho anh Đ nuôi dưỡng đến khi cả 03 cháu đủ 18 tuổi, và cháu N có nguyện vọng được ở với chị T, cháu C có nguyện vọng được ở với anh Đ, cần chấp nhận. Cần giao cháu N và cháu Q cho chị T tiếp tục nuôi dưỡng, giao cháu C cho anh Đ tiếp tục nuôi dưỡng đến khi cả 03 cháu đủ 18 tuổi là phù hợp. Về nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con, hai bên đương sự đều không yêu cầu Tòa án giải quyết; nên không xem xét giải quyết.

[4] Về tài sản, công nợ: Đều không yêu cầu Tòa án giải quyết, nên không xem xét giải quyết.

[5] Về án phí: Chị T phải chịu án phí dân sự sơ thẩm theo luật định

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1 Điều 51; khoản 1 Điều 56; Điều 81; 82; 83 của Luật Hôn nhân và gia đình;

Căn cứ vào khoản 4 Điều 147; điểm b khoản 2 Điều 227; khoản 3 Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự;

Căn cứ vào điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, 1. Về quan hệ hôn nhân: Chị Nguyễn Thị T được ly hôn anh Lương Văn Đ.

2. Về con chung: Giao cháu Lương Thùy N, sinh ngày 26/3/2008 và Lương Trọng Q, sinh ngày 15/9/2021 cho chị T nuôi dưỡng đến khi đủ 18 tuổi hoặc có sự thay đổi khác theo quy định của pháp luật. Giao cháu Lương Trọng C, sinh ngày 05/7/2014 cho anh Đ nuôi dưỡng đến khi đủ 18 tuổi hoặc có sự thay đổi khác theo quy định của pháp luật. Không bên nào phải cấp dưỡng nuôi con chung.

Sau khi ly hôn, hai bên đều có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở.

3. Về tài sản, công nợ: Không yêu cầu Tòa án giải quyết.

4. Về án phí: Chị T phải chịu 300.000đ (ba trăm nghìn đồng) án phí dân sự sơ thẩm, nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí dân sự sơ thẩm đã nộp là 300.000đ (ba trăm nghìn đồng) theo biên lai số 0001647 ngày 09 tháng 02 năm 2022 tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện K. Chị T đã chịu đủ án phí dân sự sơ thẩm.

Chị T có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Anh Đ có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc được tống đạt hợp lệ.

Trong trường hợp Bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a và Điều 9 Luật Thi hành án dân sự. Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

104
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con số 17/2022/HNGĐ-ST

Số hiệu:17/2022/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Kiến Thuỵ - Hải Phòng
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 25/05/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;