Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con số 16/2022/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN NINH HẢI - TỈNH NINH THUẬN

BẢN ÁN 16/2022/HNGĐ-ST NGÀY 30/05/2022 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON

Ngày 30 tháng 5 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Ninh Hải, tỉnh Ninh Thuận xét xử sơ thẩm công khai vụ án hôn nhân gia đình thụ lý số:

230/2021/TLST-HNGĐ ngày 02/11/2021 về việc tranh chấp "Ly hôn, tranh chấp về nuôi con” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 17/2022/QĐXXST- HNGĐ ngày 21/4/2022 và Quyết định hoãn phiên tòa số 13/2022/QĐST- HNGĐ ngày 09/5/2022 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Bà Lê Thị Tuyết B - sinh năm: 1984 (có mặt).

- Bị đơn: Ông Trần Văn V - sinh năm: 1976 (vắng mặt) Cùng địa chỉ: Thôn Tr Th, xã Tr H, huyện Ninh Hải, tỉnh Ninh Thuận.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong đơn xin ly hôn, biên bản lấy lời khai và tại phiên tòa nguyên đơn bà Lê Thị Tuyết Bích trình bày:

Bà và ông Trần Văn V tiến đến hôn nhân hoàn toàn tự nguyện, có đăng ký kết hôn và được Ủy ban nhân dân xã Tr H, huyện Ninh Hải, tỉnh Ninh Thuận cấp Giấy chứng nhận kết hôn số 71 ngày 29/9/2011. Vợ chồng có 01 con chung là cháu Trần Gia Ph – sinh ngày 13/11/2011.

Quá trình chung sống vợ chồng phát sinh mâu thuẫn do bất đồng quan điểm sống, ông V thường xuyên rượu chè, mỗi lần uống rượu về là kiếm cớ gây sự với bà, chửi và đánh bà nhiều lần, có lần còn cầm dao hành hung cha mẹ bà …Vợ chồng đã sống ly thân từ tháng 6/2021 đến nay, không còn quan tâm chăm sóc nhau. Vì tình cảm vợ chồng không còn nên bà yêu cầu Tòa án giải quyết cho bà được ly hôn với ông V.

Về con chung: bà yêu cầu được trực tiếp nuôi dưỡng con chung, không yêu cầu ông V cấp dưỡng nuôi con. Bà làm nhân viên ở siêu thị, thu nhập bình quân hiện nay 9.000.000 đồng/tháng. Ông V làm tài xế, thu nhập bao nhiêu bà không rõ.

Về tài sản chung, nợ chung: Bà không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Tại bản tự khai bị đơn ông Trần Văn V trình bày:

Ông đồng ý với trình bày của bà B về hôn nhân và con chung. Giữa ông và bà B có xảy ra mâu thuẫn do bất đồng quan điểm sống, ông có mâu thuẫn với gia đình vợ, nhiều lần xảy ra cãi vã căng thẳng. Ông và bà B đã sống ly thân từ tháng 6/2021 đến nay. Nay bà B xin ly hôn, ông đồng ý.

Về con chung: Nếu Tòa giải quyết cho ly hôn, ông có nguyện vọng nuôi dưỡng con chung, không yêu cầu cấp dưỡng. Thu nhập hàng tháng của ông khoảng 12.000.000 đồng.

Về tài sản chung, nợ chung: Ông không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Ý kiến của đại diện Viện kiểm sát:

Từ khi thụ lý vụ án đến nay, Thẩm phán, Thư ký, Nguyên đơn đều tuân thủ đúng các quy định của Bộ luật tố tụng dân sự; riêng Bị đơn vắng mặt nhưng có làm bản khai. Tại phiên tòa hôm nay HĐXX đúng thành phần, xét xử đảm bảo đúng quy định của pháp luật.

Về việc giải quyết vụ án: đề nghị HĐXX chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của bà B. Giao con chung cho bà B trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng; Ông V không phải cấp dưỡng nuôi con chung.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa, lời trình bày và kết quả tranh tụng tại phiên tòa, ý kiến của Kiểm sát viên, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về thủ tục tố tụng:

[1.1] Căn cứ vào đơn khởi kiện và các tài liệu chứng cứ kèm theo, xác định quan hệ pháp luật tranh chấp trong vụ kiện này là: “Ly hôn, tranh chấp nuôi con”, thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Ninh Hải theo quy định tại các điều 28, 35, 39 Bộ luật tố tụng dân sự.

[1.2] Tại phiên tòa hôm nay, Bị đơn tiếp tục vắng mặt không có lý do. Căn cứ điểm b khoản 2 Điều 227, khoản 3 Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt Bị đơn.

[2] Về nội dung:

Xét yêu cầu khởi kiện của Nguyên đơn, HĐXX thấy rằng: [2.1] Về quan hệ hôn nhân:

Bà Lê Thị Tuyết B và ông Trần Văn V kết hôn là do tự nguyện, có đăng ký kết hôn và được Uỷ ban nhân dân xã Tr H, huyện Ninh Hải cấp giấy chứng nhận kết hôn số 71 ngày 29/9/2011, theo quy định của pháp luật đây là hôn nhân hợp pháp.

Bà B trình bày: quá trình chung sống, vợ chồng thường xuyên xảy ra mâu thuẫn, cuộc sống chung không hạnh phúc, ông V thường uống rượu say về kiếm cớ gây sự chửi bới, đánh đập bà, thậm chí còn cầm dao hành hung cha mẹ bà, vợ chồng đã sống ly thân từ tháng 6/2021 đến nay…Lời trình bày của bà B phù hợp với biên bản xác minh ngày 05/01/2022 tại địa phương (BL 41). Mặt khác tại bản khai ngày 23/11/2021 (BL 37) ông V cũng trình bày vợ chồng ông đã sống ly thân từ tháng 6 năm 2021 đến nay, không còn quan tâm chăm sóc nhau… HĐXX thấy rằng tình trạng hôn nhân giữa bà B và ông V đã trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Căn cứ vào khoản 1 Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình, Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của bà B.

[2.2] Về con chung: bà B và ông V đều yêu cầu được nuôi con chung, không yêu cầu cấp dưỡng nuôi con.

Xét thấy: Bà B có việc làm và thu nhập ổn định. Từ nhỏ đến nay, cháu Ph luôn sống với mẹ, được mẹ chăm sóc, nuôi dưỡng tốt. Mặt khác tại biên bản lấy lời khai ngày 20/01/2022 (BL 38) cháu Ph có nguyện vọng ở với mẹ. Do đó, để đảm bảo quyền lợi về mọi mặt cũng như sự phát triển bình thường về thể chất và tinh thần cho con chung, HĐXX quyết định giao cháu Trần Gia Ph cho bà B trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục. Ông V không cấp dưỡng nuôi con chung do bà Bích không yêu cầu.

[2.3] Về tài sản chung, nợ chung: Các đương sự không yêu cầu Tòa án giải quyết.

[3] Từ những phân tích, đánh giá chứng cứ như trên, Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn; chấp nhận toàn bộ ý kiến của Kiểm sát viên phát biểu tại phiên tòa.

[4] Về án phí: đương sự phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào: Khoản 1 Điều 56, Điều 81, Điều 82, Điều 83 Luật Hôn nhân và Gia đình; Khoản 4 Điều 147 Bộ luật Tố tụng Dân sự; khoản 5, khoản 6 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội quy định về án phí, lệ phí Tòa án.

Tuyên xử: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn bà Lê Thị Tuyết B.

1. Về quan hệ hôn nhân: Bà Lê Thị Tuyết B được ly hôn với ông Trần Văn V.

2. Về con chung: Bà Lê Thị Tuyết B có quyền và nghĩa vụ trực tiếp nuôi dưỡng con chung là cháu Trần Gia Ph – sinh ngày 13/11/2011. Ông Trần Văn V không phải cấp dưỡng nuôi con chung.

Sau khi ly hôn, người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở.

Cha, mẹ không trực tiếp nuôi con lạm dụng việc thăm nom con để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con thì người trực tiếp nuôi con có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom con của người đó.

3. Về án phí:

Bà Lê Thị Tuyết B phải chịu 300.000đ (ba trăm ngàn đồng) án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp là 300.000đ (ba trăm ngàn đồng) theo biên lai số 0003239 ngày 28/10/2021 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Ninh Hải. Bà B đã nộp đủ án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm Án xử công khai, sơ thẩm có mặt nguyên đơn, quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án; riêng bị đơn vắng mặt, quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày được tống đạt hợp lệ bản án

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

93
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con số 16/2022/HNGĐ-ST

Số hiệu:16/2022/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Ninh Hải - Ninh Thuận
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 30/05/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;