Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con số 16/2021/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN H N, TỈNH N A

BẢN ÁN 16/2021/HNGĐ-ST NGÀY 10/08/2021 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON

Ngày 10 tháng 8 năm 2021 tại trụ sở Toà án nhân dân huyện H N xét xử sơ thẩm công khai vụ án HNGĐ thụ lý số 56/2021/TLST-HNGĐ ngày 01 tháng 6 năm 2021 về việc “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 18/2021/QĐXX-ST ngày 29 tháng 7 năm 2021 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Anh N N T, sinh năm: 1981. Trú tại: Thôn X, xã X, huyện H T, tỉnh B T. Vắng mặt (có đơn xin xét xử vắng mặt).

- Bị đơn: Chị H T V, sinh năm: 1988.Trú tại: Xóm X, xã H YN, huyện H N, tỉnh N A. Có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong đơn khởi kiện về việc ly hôn ngày 26 tháng 5 năm 2021 và các lời khai trong quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn anh N N T trình bày: Anh và chị H T V kết hôn ngày 30 tháng 6 năm 2010, có đăng ký kết hôn tại UBND xã X, huyện H T, tỉnh B T. Hôn nhân hoàn toàn tự nguyện. Sau khi kết hôn vợ chồng chung sống được một khoảng thời gian thì bắt đầu phát sinh nhiều mâu Thuẫn do quan điểm sống trái ngược nhau dẫn đến mâu Thuẫn ngày một trầm trọng. Anh và chị V đã sống ly thân được 06 năm. Hiện tình cảm vợ chồng không còn, mục đích hôn nhân không đạt được nên anh N N T làm đơn yêu cầu Tòa án giải quyết cho anh được ly hôn với chị H T V. Về con chung: Vợ chồng có 1 con chung có tên là N N T, sinh ngày 07 tháng 3 năm 2015. Vợ chồng đã thỏa Tận giao con chung cho chị V trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục. Về tài sản và các khoản nợ: Anh N N T không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Phía bị đơn là chị H T V trình bày tại bản tự khai và tại phiên tòa như sau: Về thời gian điều kiện kết hôn và mâu Tẫn của vợ chồng đúng như anh N N T trình bày. Hiện chị và anh T sống ly thân đã lâu, tình cảm vợ chồng không còn nên chị đồng ý ly hôn với anh T. Về con chung, chị có nguyện vọng trực tiếp nuôi dưỡng chăm sóc và giáo dục cháu N N T và không yêu cầu anh T cấp dưỡng nuôi con chung. Về tài sản và các khoản nợ: Chị H T V không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Phát biểu của Kiểm sát viên:

Về tố tụng: Trong quá trình giải quyết vụ án Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa và Người tham gia tố tụng đó tuân theo đúng quy định của Bộ luật Tố tụng: Thụ lý vụ án đúng thẩm quyền, giải quyết đúng tranh chấp. Nguyên đơn vắng mặt và có đơn xin xét xử vắng mặt. Vì vậy, Tòa án đưa vụ án ra xét xử là đúng theo quy định.

Về đường lối giải quyết vụ án: Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng: Điều 51, 56, 81, 82, 83 Luật Hôn nhân và gia đình; Điều 28, 35, 147 Bộ luật Tố tụng Dân sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội xử: Chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn, cho anh N N T được ly hôn chị H T V. Đề nghị giao con chung là N N T, sinh ngày 07 tháng 3 năm 2015 cho chị H T V trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục cho đến khi con trưởng thành. Tạm hoãn nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chung cho anh N N T. Anh N N T phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi xem xét các tài liệu có trong hồ sơ vụ án, được thẩm tra tại phiên Toà và căn cứ vào kết quả xét hỏi, tranh luận tại phiên Toà, Hội đồng xét xử xét thấy:

[1]. Về thủ tục tố tụng: Đây là vụ án Hôn nhân và Gia đình về tranh chấp “Ly hôn và nuôi con chung”. Bị đơn là chị H T V có hộ khẩu thường trú tại Xóm X, xã H YN, huyện H N, tỉnh N A. Vì vậy, Tòa án nhân dân huyện H N thụ lý, giải quyết là đúng thẩm quyền quy định tại khoản 1 Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật Tố tụng Dân sự.

Quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn có đơn xin vắng mặt tại phiên họp kiểm tra việc công khai chứng cứ, hòa giải và xin xét xử vắng mặt. Vì vậy, Tòa án nhân dân huyện H N đưa vụ án ra xét xử là đúng quy định pháp luật.

[2]. Về quan hệ hôn nhân: Anh N N T và chị H T V kết hôn ngày 30 tháng 6 năm 2010 và có đăng ký kết hôn tại UBND xã X, huyện H T, tỉnh B T là không vi phạm các quy định về điều kiện kết hôn tại Điều 8 Luật Hôn nhân và gia đình. Đây là hôn nhân hợp pháp và được pháp luật bảo vệ. Sau khi kết hôn, vợ chồng chỉ sống chung hạnh phúc được thời gian ngắn thì xảy ra mâu Tẫn. Nguyên nhân do quan điểm sống quá khác nhau, vợ chồng không có tiếng nói chung. Trong quá trình giải quyết hòa giải, anh N N T tuy không có mặt tại phiên hòa giải nhưng đã có bản tự khai đầy đủ gửi cho Tòa án và thể hiện nguyện vọng của mình là kiên quyết xin ly hôn với chị V. Chị H T V cũng Tận tình ly hôn với anh T.

Xét thấy, mâu Tẫn vợ chồng đã đến mức trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Căn cứ vào khoản 1 Điều 56 luật Hôn nhân và gia đình chấp nhận yêu cầu của anh N N T được ly hôn chị H T V.

[3]. Về con chung và cấp dưỡng nuôi con: Hội đồng xét xử xét thấy: Nguyện vọng nuôi con chung của chị H T V là chính đáng. Con gái sống với mẹ từ nhỏ cho đến giờ, anh T cũng đồng ý nhường quyền nuôi con cho chị V. Nên cần giao con chung N N T, sinh ngày 07 tháng 3 năm 2015 cho chị H T V nuôi dưỡng, chăm sóc là phù hợp và đảm bảo quyền lợi của con chung.

Về cấp dưỡng nuôi con chung: Chị V không yêu cầu anh T cấp dưỡng nuôi con nên tạm hoãn nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chung cho anh T.

[4]. Tài sản và các khoản nợ: Anh N N T và chị H T V không yêu cầu nên Tòa không xem xét.

[5]. Về án phí: Áp dụng điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội, buộc anh N N T phải chịu án phí Dân sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào Điều 51, khoản 1 Điều 56; Điều 58, Điều 81, Điều 82 và Điều 83 Luật Hôn nhân và gia đình; khoản 1 Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39; khoản 4 Điều 147; điểm b khoản 2 Điều 227 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015; Điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc Hội xử::

Về quan hệ hôn nhân: Cho anh N N T được ly hôn chị H T V.

Về con chung: Giao con chung là N N T, sinh ngày 07 tháng 3 năm 2015 cho chị H T V trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục cho đến khi con đủ 18 tuổi, trưởng thành. Tạm hoãn nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chung cho anh N N T.

Sau khi ly hôn, người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở.

Vì lợi ích mọi mặt của con thì các bên đương sự có quyền xin thay đổi người trực tiếp nuôi con và yêu cầu mức cấp dưỡng nuôi con.

Về án phí: Anh N N T phải chịu 300.000 (Ba trăm nghìn đồng) án phí dân sự sơ thẩm. Nhưng được khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí là 300.000 (Ba trăm nghìn đồng) mà anh T đó nộp tại cơ quan Thi hành án Dân sự huyện H N theo biên lai T tiền số 0005011 ngày 01 tháng 6 năm 2021. Anh T đã nộp đủ.

Về quyền kháng cáo: Bị đơn có quyền làm đơn kháng cáo lên Tòa án nhân dân tỉnh N A trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Nguyên đơn vắng mặt tại phiên tòa có quyền làm đơn kháng cáo lên Tòa án nhân dân tỉnh N A trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày bản án được giao cho họ hoặc được niêm yết hợp lệ.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

62
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con số 16/2021/HNGĐ-ST

Số hiệu:16/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Hưng Nguyên - Nghệ An
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 10/08/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;