Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con số 15/2022/HNGĐ-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN ĐẤT ĐỎ, TỈNH BÀ RỊA – VŨNG TÀU

BẢN ÁN 15/2022/HNGĐ-ST NGÀY 18/04/2022 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON

Ngày 18 tháng 4 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Đất Đỏ, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 218/2021/TLST- HNGĐ ngày 20/12/2021, về việc “Ly hôn, tranh chấp nuôi con” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 07/2022/QĐXXST-HNGĐ ngày 03/3/2022; Quyết định hoãn phiên tòa số 11/2022/QĐST-HNGĐ ngày 24/3/2022; giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Bà Lê Thị Hồng V, sinh năm: 1974; địa chỉ: khu phố T, thị trấn Đ, huyện Đất Đỏ, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu (có đơn xin xét xử vắng mặt).

2. Bị đơn: Ông Trần Văn T, sinh năm: 1974; địa chỉ: khu phố T, thị trấn Đ, huyện Đất Đỏ, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu (vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện ngày 22/11/2021, bản tự khai, biên bản hòa giải, nguyên đơn bà Lê Thị Hồng V trình bày:

Bà và ông Trần Văn T tự nguyện tìm hiểu và chung sống với nhau từ năm 2004 trên cơ sở tự nguyện, không bị ai ép buộc và có đăng ký kết hôn tại UBND thị trấn Đất Đỏ. Ông bà chung sống hạnh phúc đến năm 2015 thì xảy ra mâu thuẫn. Nguyên nhân là do hai bên bất đồng quan điểm về mọi vấn đề trong cuộc sống, không thể trò chuyện cùng nhau để giải quyết tất cả các vấn đề trong cuộc sống; ông T thường xuyên nhậu nhẹt về chửi bới, đánh đập bà V và các con. Mối quan hệ giữa hai bên không thể hàn gắn nên dù sống cùng nhà nhưng đã ly thân từ năm 2019 đến nay.

Nay nhận thấy, giữa bà và ông T mạnh ai nấy sống, không còn tình cảm với nhau nên bà V đề nghị Tòa án nhân dân huyện Đất Đỏ cho bà được ly hôn với ông T.

Về con chung: Có 03 con chung là Lê T Cảnh, sinh ngày 11/9/1996; Lê T Vũ, sinh ngày 05/4/2002 và Lê T Phong, sinh ngày 08/9/2004. Cháu Cảnh và Vũ đã thành niên nên bà V không yêu cầu Tòa án giải quyết. Bà V yêu cầu được trực tiếp nuôi dưỡng cháu Phong cho đến khi đủ tuổi trưởng thành. Không yêu cầu ông T phải cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung và nợ chung: Không yêu cầu tòa giải quyết.

Bị đơn ông Trần Văn T:

Sau khi thụ lý vụ án, Tòa án nhân dân huyện Đất Đỏ đã tiến hành thông báo về việc thụ lý vụ án cho ông T được biết. Trong quá trình giải quyết vụ án đã tiến hành triệu tập hợp lệ nhiều lần nhưng ông T vắng mặt không có lý do. Do đó Tòa án không thể tiến hành lấy lời khai cũng như không thể tiến hành hòa giải được.

- Ý kiến của kiểm sát viên tại phiên tòa: Quá trình tố tụng từ khi thụ lý vụ án đến trước khi khai mạc phiên tòa, Thẩm phán đã tiến hành đúng các quy định về thủ tục tố tụng được quy định tại Điều 48 của Bộ luật tố tụng dân sự. Tại phiên tòa, Hội đồng xét xử đã thực hiện đúng quy định tại chương XIV Bộ luật tố tụng dân sự về phiên tòa sơ thẩm. Những người tham gia tố tụng: Bị đơn ông Trần Văn T đã được triệu tập hợp lệ lần thứ hai nhưng vắng mặt; nguyên đơn bà Lê Thị Hồng V có đơn xin xét xử vắng mặt; căn cứ vào điểm a, b khoản 1 Điều 238 của Bộ luật Tố tụng dân sự, đề nghị vẫn tiến hành xét xử vụ án theo luật định.

Về nội dung vụ án: Yêu cầu của bà Lê Thị Hồng V xin ly hôn với ông Trần Văn T là có cơ sở, đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn, bà V được ly hôn với ông T; Về con chung: Cháu Cảnh và Vũ đã thành niên nên bà V không yêu cầu Tòa án giải quyết. Bà V yêu cầu được trực tiếp nuôi dưỡng cháu Phong cho đến khi đủ tuổi trưởng thành, đề nghị chấp nhận yêu cầu của bà V; Về tài sản chung và nợ chung: Đương sự không yêu cầu nên đề nghị Hội đồng xét xử không xem xét; Về án phí: Nguyên đơn phải chịu án phí theo quy định.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về thủ tục tố tụng:

- Về thẩm quyền và quan hệ pháp luật tranh chấp: Bà Lê Thị Hồng V yêu cầu ly hôn với ông Trần Văn T, bị đơn đang cư trú tại huyện Đất Đỏ, thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Đất Đỏ theo khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35 và điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật tố tụng dân sự.

- Về sự vắng mặt của đương sự: Bị đơn ông Trần Văn T đã được Tòa án triệu tập hợp lệ lần thứ hai nhưng vắng mặt; nguyên đơn bà Lê Thị Hồng V có đơn xin xét xử vắng mặt. Vì vậy, căn cứ vào điểm a, b khoản 1 Điều 238 của Bộ luật tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử quyết định xét xử vắng mặt nguyên đơn và bị đơn.

[2] Về nội dung: Xét yêu cầu của nguyên đơn:

[2.1] Về quan hệ hôn nhân:

Bà Lê Thị Hồng V và ông Trần Văn T tự nguyện chung sống và có đăng ký kết hôn theo Giấy chứng nhận kết hôn số 84 ngày 13/10/2004 của Ủy ban nhân dân thị trấn Đất Đỏ, nên đây là hôn nhân hợp pháp.

Theo lời trình bày của bà V thì trong quá trình chung sống, giữa ông bà thường xuyên phát sinh mâu thuẫn, tranh cãi do hai bên bất đồng quan điểm sống về mọi mặt trong cuộc sống, lối sống chung không phù hợp, không thể giải quyết được nên thường xảy ra tranh cãi và mâu thuẫn ngày càng lớn hơn. Ông T thường xuyên nhậu nhẹt về chửi bới và đánh đập vợ con. Bà đã nhiều lần nói chuyện để hàn gắn tình cảm với ông T nhưng ông vẫn không thay đổi. Nay, bà V nhận thấy cuộc sống hôn nhân không có hạnh phúc, mục đích hôn nhân không đạt được, mạnh ai nấy sống, không quan tâm đến nhau nên không thể duy trì cuộc hôn nhân này được nữa.

Quá trình giải quyết vụ án, Tòa án đã tiến hành thông báo về việc thụ lý vụ án cho ông T, tại thông báo có nêu rõ yêu cầu khởi kiện và những tài liệu chứng cứ mà bà V đã giao nộp cho Tòa án. Đồng thời đã nhiều lần triệu tập ông T đến Tòa án để ông trình bày ý kiến của mình đối với yêu cầu ly hôn của bà V; cũng như thông báo để ông T tham gia các phiên hòa giải nhưng ông đều vắng mặt không có lý do. Như vậy lời khai của bà V về việc gia đình mâu thuẫn, không có hạnh phúc là có cơ sở. Việc ông T không đến Tòa án để làm việc, để tham gia hòa giải và tham gia phiên tòa sơ thẩm đã chứng minh ông không còn quan tâm đến hạnh phúc gia đình, tình trạng mâu thuẫn đã trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Do đó có cơ sở để Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu ly hôn của bà V.

[2.2] Về con chung: Bà V và ông T có 03 con chung là Lê T Cảnh, sinh ngày 11/9/1996 và Lê T Vũ, sinh ngày 05/4/2002 (đều đã thành niên, đương sự không yêu cầu nên không xem xét); riêng cháu Lê T Phong, sinh ngày 08/9/2004 đang do bà V trực tiếp nuôi dưỡng nên Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu của bà V được trực tiếp trông nom, nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục con chung đến tuổi trưởng thành và đảm bảo quyền lợi về mọi mặt của con theo quy định tại khoản 2 Điều 81 Luật Hôn nhân và gia đình.

[2.3] Về cấp dưỡng nuôi con: Bà V không có yêu cầu ông T phải cấp dưỡng nuôi con nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[2.4] Về tài sản chung và nợ chung: Đương sự không có yêu cầu nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[2.5] Về án phí: Bà V phải chịu án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào các Điều 28, 35, 227, 238, 273 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015; Căn cứ vào các Điều 56, 57, 58, 81, 82, 83, 84 Luật Hôn nhân và gia đình;

Tuyên xử:

1. Về hôn nhân: Chấp nhận yêu cầu của bà Lê Thị Hồng V được ly hôn với ông Trần Văn T.

2. Về con chung:

- Đối với 02 con chung là Lê T Cảnh, sinh ngày 11/9/1996 và Lê T Vũ, sinh ngày 05/4/2002 đều đã thành niên, đương sự không yêu cầu nên Hội đồng xét xử không xem xét.

- Giao con chung tên Lê T Phong, sinh ngày 08/9/2004 cho bà Lê Thị Hồng V trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục sau khi ly hôn đến khi trưởng thành (18 tuổi). Ghi nhận sự tự nguyện của bà V không yêu cầu ông Trần Văn T không cấp dưỡng nuôi con.

Sau khi ly hôn, ông Trần Văn T được quyền thăm nom chăm sóc, giáo dục con chung không ai được quyền ngăn cản.

Người trực tiếp nuôi con có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom của người không trực tiếp nuôi con, nếu họ lạm dụng việc thăm nom để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng giáo dục con chung.

Trong trường hợp có yêu cầu của cha, mẹ hoặc cá nhân, tổ chức quy định tại khoản 5 Điều 84 của Luật Hôn nhân và gia đình, Tòa án có thể quyết định thay đổi việc nuôi con và yêu cầu cấp dưỡng nuôi con theo quy định của pháp luật.

3. Về tài sản chung và nợ chung: Đương sự không có yêu cầu nên Hội đồng xét xử không xem xét.

4. Về án phí: Bà Lê Thị Hồng V phải nộp 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp theo biên lai thu tiền số 0009576 ngày 08/12/2021 của Chi Cục Thi hành án dân sự huyện Đất Đỏ. Bà V đã nộp xong án phí.

5. Về quyền kháng cáo: Trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận bản sao bản án hoặc bản sao bản án được niêm yết hợp lệ, đương sự có quyền kháng cáo để yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu xét xử phúc thẩm.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

114
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con số 15/2022/HNGĐ-ST

Số hiệu:15/2022/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Đất Đỏ - Bà Rịa - Vũng Tàu
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 18/04/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;