Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con số 15/2022/HNGĐ-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TIÊN LÃNG, THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG

BẢN ÁN 15/2022/HNGĐ-ST NGÀY 22/03/2022 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON

Ngày 22 tháng 3 năm 2022, tại Toà án nhân dân huyện Tiên Lãng, thành phố Hải Phòng mở phiên tòa xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 261/2021/TLST-HNGĐ ngày 24 tháng 12 năm 2021 về Ly hôn, tranh chấp nuôi con theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 10/2022/QĐXXST-HNGĐ ngày 24 tháng 02 năm 2022; Quyết định hoãn phiên toà số 09/2022/QĐST-HNGĐ ngày 14 tháng 3 năm 2022 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Chị Nguyễn Thuỳ D, sinh năm 19xx; nơi cư trú: Thôn X, xã Đ, huyện T, thành phố Hải Phòng, vắng mặt.

- Bị đơn: Anh Nguyễn Nam N, sinh năm 19xx; nơi cư trú: Thôn X, xã Đ, huyện T, thành phố Hải Phòng, vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong đơn khởi kiện, bản tự khai, nguyên đơn là chị Nguyễn Thuỳ D trình bày:

Chị D và anh Nguyễn Nam N kết hôn với nhau tự nguyện tại Uỷ ban nhân dân xã Đ ngày 16 tháng 12 năm 2010. Quá trình chung sống, anh chị hòa thuận hạnh phúc được một thời gian thì phát sinh mâu thuẫn do tính tình không hợp, vợ chồng bất đồng quan điểm sống, do anh N không chịu làm ăn, thường hay kiếm cớ gây sự, đánh chửi chị D nên vợ chồng thường xuyên căng thẳng, bất hoà. Mâu thuẫn đã được hai bên gia đình hoà giải nhiều lần nhưng không có kết quả nên anh chị đã sống ly thân từ tháng 10 năm 2020 đến nay, không quan tâm đến nhau. Nay nhận thấy vợ chồng không thể đoàn tụ, chị D yêu cầu được ly hôn anh N. Anh chị có 01 con chung là Nguyễn Thành Đ, sinh ngày 01 tháng 01 năm 20xx. Khi ly hôn, chị D đề nghị Toà án giao con cho anh N trực tiếp nuôi. Việc cấp dưỡng cho con và tài sản chung, chị D tự thoả thuận với anh N, không yêu cầu Toà án giải quyết.

Tại Biên bản lấy lời khai của đương sự, bị đơn là anh Nguyễn Nam N trình bày:

Những nội D chị D trình bày về thời gian, địa điểm kết hôn, tình trạng hôn nhân giữa anh chị là đúng. Quá trình chung sống, anh chị hoà thuận đến năm 2020 thì phát sinh mâu thuẫn do vợ chồng bất đồng quan điểm về công việc, chị D muốn anh N đi làm công ty cho ổn định nhưng anh N muốn đi làm tự do cho thoải mái, không bị bó buộc về thời gian nên vợ chồng xảy ra to tiếng, cãi nhau, hôn nhân không hạnh phúc. Tháng 10 năm 2021, chị D đã bỏ về nhà mẹ đẻ sinh sống, anh chị sống ly thân nhau từ đó đến nay, không quan tâm đến nhau. Từ khi chị D bỏ đi, anh N và gia đình đã nhiều tìm gặp động viên chị D về nhà đoàn tụ nhưng không có kết quả. Nay chị D yêu cầu ly hôn, xét thấy mâu thuẫn vợ chồng chưa trầm trọng, anh N có nguyện vọng muốn vợ chồng đoàn tụ tiếp tục xây dựng hạnh phúc gia đình và nuôi dạy con khôn lớn cho con không bị thiệt thòi nên anh N không đồng ý ly hôn. Anh chị có 01 con chung như chị D trình bày, nếu phải ly hôn, anh đề nghị giao con cho anh trực tiếp nuôi; việc cấp dưỡng cho con, anh tự thoả thuận với chị D, không yêu cầu Toà án giải quyết. Anh chị không có tài sản chung, không yêu cầu Toà án giải quyết.

Tài liệu xác minh tại địa phương thể hiện: Anh N và chị D có đăng ký kết hôn tại Uỷ ban nhân dân xã Đ ngày 16 tháng 12 năm 2010. Mâu thuẫn vợ chồng anh chị phát sinh từ năm 2020 do anh N là lao động tự do, không có công việc ổn định, chị D đã nhiều lần động viên nhắc nhở anh N nhưng anh N không nghe nên vợ chồng xảy ra mâu thuẫn, cãi nhau. Tháng 10 năm 2020, chị D bỏ về nhà mẹ đẻ sinh sống, anh chị sống ly thân nhau từ đó đến nay, không quan tâm đến nhau. Anh chị có 01 con chung. Kể từ khi anh chị sống ly thân, con chung do anh N và bố mẹ anh N trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng. Anh N hiện đi làm tàu cát thuê, có thu nhập khoảng 06 đến 07 triệu đồng/tháng.

Tại phiên tòa, nguyên đơn vắng mặt nhưng có đơn đề nghị xét xử vắng mặt và giữ nguyên yêu cầu khởi kiện. Bị đơn đã được triệu tập hợp lệ lần thứ hai nhưng vẫn vắng mặt tại phiên tòa không vì sự kiện bất khả kháng hoặc trở ngại khách quan, không có văn bản thể hiện việc thay đổi ý kiến.

Kiểm sát viên phát biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật tố tụng dân sự trong quá trình giải quyết vụ án của Thẩm phán, Hội đồng xét xử và việc chấp hành pháp luật của người tham gia tố tụng: Thẩm phán đã thụ lý vụ án, thu thập chứng cứ, thông báo về việc thu thập được chứng cứ, tài liệu, mở phiên họp, hoà giải, quyết định đưa vụ án ra xét xử đúng quy định về thẩm quyền, thời hạn, trình tự, thủ tục tố tụng; phiên toà được mở đúng thời hạn, Hội đồng xét xử thực hiện đúng quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự. Nguyên đơn đã thực hiện đúng các quyền và nghĩa vụ theo quy định tại các điều 70, 71 của Bộ luật Tố tụng dân sự. Bị đơn không tham gia tố tụng tại Toà án, vắng mặt tại phiên hòa giải, phiên tòa không có lý do là thực hiện chưa đầy đủ quyền và nghĩa vụ của mình theo quy định tại Điều 70, 72 của Bộ luật Tố tụng dân sự.

Về việc giải quyết vụ án: Kiểm sát viên đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ vào khoản 1 Điều 56, Điều 81, Điều 82, Điều 83 của Luật Hôn nhân và gia đình; khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, khoản 4 Điều 147, khoản 2 Điều 227, khoản 1, 3 Điều 228, Điều 266, Điều 271 và khoản 1 Điều 273 của Bộ luật Tố tụng dân sự; điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn: Xử cho chị Nguyễn Thuỳ D được ly hôn anh Nguyễn Nam N; giao con Nguyễn Thành Đ, sinh ngày 01 tháng 01 năm 20xx cho anh N trực tiếp nuôi. Việc cấp dưỡng cho con và tài sản chung, anh chị tự thoả thuận, không yêu cầu giải quyết nên không xem xét, giải quyết. Chị D phải chịu án phí ly hôn theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ đã được xem xét tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

- Về tố tụng:

[1] Căn cứ yêu cầu khởi kiện của chị Nguyễn Thuỳ D thì quan hệ pháp luật tranh chấp trong vụ án là Ly hôn, tranh chấp về nuôi con; anh Nguyễn Nam N là bị đơn, hiện đang cư trú tại: Thôn X, xã Đ, huyện Tiên Lãng, thành phố Hải Phòng nên vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Tiên Lãng theo quy định tại khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35 và điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự.

[2] Nguyên đơn (chị D) đã được Tòa án triệu tập hợp lệ, vắng mặt tại phiên toà và có đơn đề nghị xét xử vắng mặt. Bị đơn (anh N) đã được Tòa án triệu tập hợp lệ lần thứ hai nhưng vẫn vắng mặt tại phiên tòa không vì lý do bất khả kháng hoặc trở ngại khách quan. Căn cứ khoản 2 Điều 227 và các khoản 1, 3 Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự, Tòa án xét xử vụ án vắng mặt chị D, anh N.

- Về nội dung:

[3] Quan hệ hôn nhân giữa chị D và anh N được xác lập từ ngày 16 tháng 12 năm 2010 là hôn nhân hợp pháp. Quá trình chung sống vợ chồng hoà thuận đến năm 2020 thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn là do tính tình không hợp, vợ chồng bất đồng quan điểm sống; anh chị không thống nhất trong việc lựa chọn nghề nghiệp của anh N. Do mâu thuẫn căng thẳng, anh chị đã sống ly thân thời gian dài (từ tháng 10 năm 2020 đến nay), không quan tâm đến nhau; anh N không đồng ý ly hôn nhưng cũng không có giải pháp giải quyết mau thuẫn vợ chồng. Như vậy, có đủ căn cứ xác định, tình trạng hôn nhân của anh chị đã trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không Đ được; yêu cầu ly hôn của chị D là có căn cứ, phù hợp với quy định tại khoản 1 Điều 56 của Luật Hôn nhân và gia đình nên cần được chấp nhận, xử cho chị D được ly hôn anh N.

[4] Về con chung: Anh chị có 01 con chung là Nguyễn Thành Đ, sinh ngày 01 tháng 01 năm 20xx, đã trên 07 tuổi; cháu Đ có nguyện vọng ở với bố. Xét thấy, yêu cầu của chị D về việc giao con cho anh N trực tiếp nuôi sau khi ly hôn phù hợp với nguyện vọng của cháu Đ và anh N. Căn cứ các khoản 2, 3 Điều 81 của Luật Hôn nhân và gia đình, Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị D, giao con Nguyễn Thành Đ cho anh N trực tiếp nuôi đến khi con đủ 18 tuổi hoặc có sự thay đổi khác theo quy định của pháp luật. Việc cấp dưỡng cho con, anh chị tự thoả thuận, không yêu cầu Toà án giải quyết nên không xem xét, giải quyết.

[5] Về tài sản chung: Các đương sự tự thỏa thuận, không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét, giải quyết.

[6] Về án phí: Chị D phải chịu án phí ly hôn sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 1 Điều 56; Điều 81, Điều 82, Điều 83 của Luật Hôn nhân và gia đình;

Căn cứ vào khoản 1 Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39; khoản 4 Điều 147; khoản 2 Điều 227; các khoản 1, 3 Điều 228; Điều 266; Điều 271 và khoản 1 Điều 273 của Bộ luật Tố tụng dân sự;

Căn cứ điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về án phí, lệ phí Tòa án, Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Nguyễn Thùy D:

1. Về quan hệ hôn nhân: Chị Nguyễn Thuỳ D được ly hôn anh Nguyễn Nam N.

2. Về con chung: Giao con Nguyễn Thành Đ, sinh ngày 01 tháng 01 năm 20xx cho anh Nguyễn Nam N trực tiếp nuôi đến khi con đủ 18 tuổi hoặc có sự thay đổi khác theo quy định của pháp luật. Việc cấp dưỡng cho con, anh chị tự thoả thuận, không yêu cầu giải quyết. Không giải quyết vấn đề cấp dưỡng cho con do các đương sự tự thoả thuận, không yêu cầu giải quyết.

Sau khi ly hôn, người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở.

3. Về tài sản chung: Các đương sự tự thỏa thuận, không yêu cầu giải quyết.

4. Về án phí: Chị Nguyễn Thuỳ D phải chịu 300.000 (Ba trăm nghìn) đồng án phí ly hôn sơ thẩm. Chị D đã nộp đủ 300.000 (Ba trăm nghìn) đồng, tiền tạm ứng án phí theo Biên lai thu số 0006137 ngày 24 tháng 12 năm 2021 tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Tiên Lãng.

Các đương sự vắng mặt tại phiên toà có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự.

Trường hợp Bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 của Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a và 9 của Luật Thi hành án dân sự, thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 của Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

141
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con số 15/2022/HNGĐ-ST

Số hiệu:15/2022/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Tiên Lãng - Hải Phòng
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 22/03/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;