Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con số 15/2022/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN HỒNG NGỰ, TỈNH ĐỒNG THÁP

BẢN ÁN 15/2022/HNGĐ-ST NGÀY 31/03/2022 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON

Ngày 31 tháng 3 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Hồng Ngự, xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 212/2021/TLST-HNGĐ ngày 07 tháng 12 năm 2021 về ly hôn, tranh chấp về nuôi con, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 23/2022/QĐXXST-HNGĐ ngày 07 tháng 3 năm 2022, giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Chị Huỳnh Thị Ngọc P, sinh năm 1994. Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: ấp B, xã A, huyện HN, tỉnh ĐT. Chỗ ở hiện nay: ấp T, xã T, huyện HN, tỉnh ĐT. Có mặt.

2. Bị đơn: Anh Võ Văn T, sinh năm 1990. Địa chỉ cư trú: ấp B, xã A, huyện HN, tỉnh ĐT. Có mặt.

3. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Ngân hàng C. Người đại diện theo pháp luật: Ông Dương Quyết T, chức vụ: Tổng giám đốc. Địa chỉ: 169 Phố L, phường H, quận H, Thành phố HN. Người đại diện theo ủy quyền: Ông Nguyễn Kha M, chức vụ: Phó giám đốc phòng giao dịch Ngân hàng C huyện HN (Giấy ủy quyền số 110/UQ-NHCS ngày 30/3/2022). Địa chỉ: khóm 1, thị trấn T, huyện HN, tỉnh ĐT. Có mặt.

4. Người làm chứng:

4.1 Bà Trần Thị B, sinh năm 1964. Địa chỉ cư trú: ấp B, xã A, huyện HN, tỉnh ĐT. Có mặt.

4.2 Ông Võ Văn C, sinh năm 1956. Địa chỉ cư trú: ấp B, xã A, huyện HN, tỉnh ĐT. Có mặt.

4.3 Bà Phạm Thị Bích Đ, sinh năm 1973. Địa chỉ cư trú: ấp T, xã T, huyện HN, tỉnh ĐT. Vắng mặt.

1. Về quan hệ hôn nhân:

NỘI DUNG VỤ ÁN

Nguyên đơn chị Huỳnh Thị Ngọc P, trình bày: Chị và anh T cưới nhau vào năm 2014, không nhớ ngày tháng, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã A, huyện HN, tỉnh ĐT. Hôn nhân do mai mối và chị cũng đồng ý kết hôn cùng anh T. Sau khi cưới chị và anh T sống cùng gia đình anh T một thời gian thì cất nhà ở riêng tại xã A, huyện HN, tỉnh ĐT. Cuộc sống vợ chồng lúc đầu hạnh phúc đến ngày 29/4/2021 thì vợ chồng phát sinh mâu thuẫn, chung sống không còn hạnh phúc nữa. Nguyên nhân do bất đồng quan điểm nhiều vấn đề trong cuộc sống, chị có mượn của người khác 3.000.000đ nhưng không cho anh T hay biết nên vợ chồng cự cãi nhau, mỗi lần anh T đi uống rượu về nhà là kiếm chuyện chửi chị, không quan tâm, lo lắng cho gia đình, vào ngày 29/4/2021 anh T đánh và chửi chị là thứ đàn bà mắc nợ sống chung không được nữa rồi đuổi chị ra khỏi nhà và nói chị có đi thì đi luôn, đừng quay về. Chị chồng tên Võ Thị P cũng đuổi chị và còn nói sẽ cưới vợ khác cho anh T. Ngoài ra, vợ chồng không còn mâu thuẫn nào khác. Chị và anh T không còn sống chung từ ngày 30/4/2021 cho đến nay, vợ chồng không có gặp nhau để hàn gắn tình cảm. Nay tình cảm vợ chồng không còn nữa, chị yêu cầu được ly hôn với anh Võ Văn T.

Bị đơn anh Võ Văn T, trình bày: Anh và chị P cưới nhau khi nào không nhớ, không nhớ cách đây bao lâu, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã A, huyện HN, tỉnh ĐT. Hôn nhân do mai mối và anh cũng đồng ý kết hôn cùng chị P. Sau khi cưới anh và chị P cất nhà ở riêng, cuộc sống vợ chồng hạnh phúc đến ngày 30/4/2021 thì vợ chồng xảy ra mâu thuẫn, chung sống không còn hạnh phúc nữa. Nguyên nhân do chị P hỏi (vay) tiền người ta mà không hỏi ý kiến anh nên hai vợ chồng xảy ra cự cãi, anh không có đánh chị P. Anh không có thường xuyên uống rượu, chỉ có một hai lần vợ chồng cự cãi, chị P nói “ở với anh không được nữa vợ chồng ly hôn đi” lúc tức giận thì anh có nói chị P đi đâu thì đi đi, khi chị P dọn đồ bỏ đi thì chị ruột của anh cũng có nói “đi thì đi, tao cưới vợ khác cho em tao”. Sau đó, chị P bỏ về nhà cha mẹ ruột ở, anh và gia đình anh có đến tìm chị P để hàn gắn tình cảm nhưng không gặp chị P, anh gọi điện thoại liên lạc với chị P cũng không được. Nay chị P yêu cầu ly hôn anh thống nhất ly hôn.

2. Về việc nuôi con:

Nguyên đơn chị Huỳnh Thị Ngọc P, trình bày: Chị và anh T chung sống với nhau có một con chung, là con trai tên Võ Huỳnh T, sinh ngày 29/7/2015. Hiện con chung đang sinh sống cùng chị từ ngày 30/4/2021 cho đến nay. Chị yêu cầu được tiếp tục nuôi dưỡng con chung và tự nguyện không yêu cầu anh T cấp dưỡng nuôi con. Hiện chị đang làm nhân viên của công ty Trách nhiệm hữu hạn Ryco Packaging chuyên sản xuất chậu, tiền lương mỗi tháng là 10.000.000đ, tại biên bản hòa giải ngày 17/01/2022 thì chị trình bày trừ chi phí sinh hoạt cá nhân, tiền trọ thì mỗi tháng chị còn dư được 5.000.000đ nhưng tại phiên tòa chị trình bày mỗi tháng dư được khoảng 7.200.000đ đủ để chị và con chung Huỳnh T sinh sống. Khi chị sống chung với anh T thì anh T làm thuê, vác lúa mướn thu nhập không ổn định, có ngày làm ngày nghỉ, trung bình thu nhập của anh T từ 7.000.000đ đến 8.000.000đ, anh T còn thường xuyên uống rượu, mỗi lần anh T uống rượu về đến nhà là đánh đập, chửi vợ con, anh T còn nói con chung Huỳnh T không phải là con của anh T, nếu con chung ở với anh T thì sẽ không có tương lai tốt đẹp.

Bị đơn anh Võ Văn T trình bày: Anh và chị P chung sống với nhau có một con chung là con trai tên Võ Huỳnh T không nhớ ngày tháng năm sinh chỉ biết con chung Huỳnh T 7 tuổi. Trước đây anh không biết con chung sống ở đâu và sống với ai, không biết có sống chung với chị P không, vì anh không liên lạc được với chị P, đến nhà cha mẹ vợ cũng không thấy con chung nhưng hiện anh biết con chung đang ở nhà cha mẹ ruột chị P, anh thấy con chung Huỳnh T không hoạt bát, bệnh tự kỷ, chị P đi làm, không có nhà riêng, cũng bỏ con cho mẹ nuôi còn anh thì có nhà riêng, anh đến nhà thăm thì anh của chị P lôi kéo, siết cổ anh lôi xuống. Anh đi làm thuê, thu nhập mỗi tháng được 15.000.000đ trừ chi phí sinh hoạt cá nhân thì mỗi tháng anh còn dư được khoảng 11.000.000đ. Khi còn sống chung với chị P thì trung bình mỗi ngày đưa cho chị P 500.000đ để lo hết chi tiêu sinh hoạt trong gia đình, nếu dư thì để dành lại, còn chị P thì bán rau cải trung bình mỗi ngày thu nhập được 200.000đ. Hiện tại không biết chị P làm nghề gì, thu nhập được bao nhiêu tiền mỗi tháng, do chị P đem con đi giấu anh không biết ở đâu nên không đến thăm nom cũng như gởi tiền, quà cho con chung. Gia đình anh có 04 anh chị em, đều có gia đình riêng, anh cũng có nhà riêng nhưng ở gần cha mẹ ruột, cha mẹ anh hiện nay cũng hơn 65 tuổi, có chăm sóc đứa cháu hơn 12 tuổi là con của người chị ruột thứ hai. Khi anh và chị P còn sống chung thì con chung Huỳnh T gởi cho cha mẹ anh chăm sóc khi anh và chị P đi làm. Mỗi ngày anh đều đi làm, không có ngày nghỉ, từ 4h sáng anh đi làm tới 5h chiều thì anh về nhà. Anh không thống nhất giao con chung cho chị P nuôi dưỡng, anh yêu cầu được nuôi dưỡng con chung Võ Huỳnh T và tự nguyện không yêu cầu chị P cấp dưỡng nuôi con. Nếu được giao con chung thì khi anh đi làm thì để con chung ở nhà cho mẹ ruột anh chăm sóc. Nhà chị P có 5 anh chị em, đều có gia đình riêng, chị P là con thứ út trong gia đình và cha mẹ ruột chị P lớn tuổi hơn cha mẹ anh, theo anh người thân của chị P sẽ không phụ chị P chăm sóc nuôi dưỡng con chung Huỳnh T và các anh trai của chị P không thương Huỳnh T, khi anh đến nhà chị P để thăm Huỳnh T thì không cho phép anh dẫn con đi chơi. Khi còn sống chung với nhau thì vợ anh chăm sóc con anh tốt, đến khi không còn sống chung thì chị P có chăm sóc con tốt hay không thì anh không biết, vì từ ngày 30/4/2021 anh không có gặp chị P và con chung.

3. Về chia tài sản chung:

Nguyên đơn chị Huỳnh Thị Ngọc P, trình bày: Khi chị làm đơn khởi kiện chị trình bày chị và anh T chung sống không có tài sản chung, vì chị nghĩ xe, nhà và tất cả tài sản trong nhà như tủ lạnh, máy giặt….giao lại cho anh T sở hữu, chị không yêu cầu chia nên đơn khởi kiện khai là không có tài sản chung. Chiếc xe Cup50, không nhớ biển số kiểm soát mà chị đang quản lý, sử dụng là do chị ruột mua cho chị chứ không phải tài sản chung của vợ chồng và cũng do người khác đứng tên quyền sở hữu, còn chiếc xe Wave chị đã bán cho anh ruột chị, còn anh T thì đang quản lý chiếc Dream 100, không nhớ biển số kiểm soát do chị đứng tên quyền sở hữu. Khi ra riêng thì cha mẹ chồng cất nhà thì vợ chồng chị ở, cũng không có nói nhà và nền nhà là cho luôn hay cho ở tạm. Ngoài ra, vợ chồng không còn tài sản nào khác. Tài sản chung chị và anh T tự thỏa thuận xong, nghĩa là chị giao toàn bộ tài sản trong nhà, nhà, nền nhà và chiếc xe Dream 100 cho anh T sở hữu, còn chị sở hữu chiếc Cup 50 nên không yêu cầu Tòa án giải quyết cũng không yêu cầu Tòa án ghi nhận trong bản án, quyết định của Tòa án.

Bị đơn anh Võ Văn T trình bày: Anh và chị P chung sống có 03 chiếc xe honda, không nhớ biển số loại xe và căn nhà. Trong đó, anh đang quản lý, sử dụng:

01 chiếc xe Dream biển số 66H1- 008.35 do chị P đứng tên quyền sở hữu, 01 cái tủ lạnh không biết hiệu, bao nhiêu lít, 01 máy giặt 8kg, không biết hiệu và một căn nhà sàn cây, lợp tôn, vách tôn, nhà cất năm nào không nhớ, chỉ nhớ cất sau khi cưới chị P, có diện tích chiều ngang 04m x chiều dài 6-7m, nền nhà là cha mẹ ruột anh cho ở đở, không phải cho luôn, không phải tài sản chung của vợ chồng. Chị P quản lý, sử dụng 02 chiếc xe gồm chiếc Suruki và chiếc Cup50 không nhớ biển số xe. Ngoài ra, không còn tài sản nào khác. Về tài sản chung anh không có tranh chấp, thống nhất sở hữu tài sản chung như chị P trình bày nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.

4. Về nợ chung: Chị P và anh T thống nhất trình bày: Anh chị có vay tiền của Ngân hàng C – Phòng giao dịch huyện HN (viết tắt là Ngân hàng) số tiền gốc là 50.000.000đ, mục đích vay tiền là để sản xuất kinh doanh trong gia đình và xây nhà vệ sinh. Chị P trình bày, vì xe, nhà và tài sản trong nhà chị giao cho anh T sở hữu nên yêu cầu một mình anh T trả nợ cho Ngân hàng, chị không đồng ý cùng anh T trả nợ. Nếu muốn chị cùng trả nợ thì anh T phải chia đôi tài sản chung cho chị. Anh T trình bày mục đích vay tiền Ngân hàng C là để xây nhà cầu là căn nhà hiện anh đang quản lý, sử dụng, khi vợ chồng còn sống chung cũng như chị P bỏ đi thì tiền lãi Ngân hàng hàng tháng là do anh trả cho Ngân hàng. Nay anh thống nhất một mình anh trả nợ cho Ngân hàng, không yêu cầu chị P cùng trả nợ. Ngoài ra, vợ chồng không có nợ ai hết.

Trong quá trình tiến hành tố tụng và tại phiên tòa.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Ngân hàng C do ông Nguyễn Kha M đại diện, trình bày: Ngày 10/6/2020 chị P đại diện hộ gia đình có vay vốn tại Ngân hàng số tiền gốc 50.000.000đ, tiền lãi tạm tính đến ngày 24/12/2021 là 175.000đ thuộc chương trình cho vay sản xuất kinh doanh vùng khó khăn. Số tiền vay của chị P và anh T chưa đến hạn trả nhưng do chị P và anh T ly hôn nên Ngân hàng yêu cầu trả nợ. Ngân hàng C thống nhất để một mình anh Võ Văn T trả số tiền vay còn nợ: Tiền gốc 50.000.000đ, tiền lãi tạm tính đến ngày 24/12/2021 là 175.000đ, tổng cộng 50.175.000đ và yêu cầu trả lãi theo khế ước số 6600000718017507 cho đến khi nào trả nợ xong. Không yêu cầu chị P cùng trả nợ.

Tại biên bản lấy lời khai ngày 24/12/2021 người làm chứng ông Võ Văn C, trình bày: Ông là cha ruột anh T, cha chồng chị P. Nhà ông và căn nhà anh T đang ở là đối diện nhau. Nguyên nhân vợ chồng anh T phát sinh mâu thuẫn là do chị P vay tiền người khác không nói cho anh T biết nên khi chủ nợ đến nhà đòi thì vợ chồng anh T cự cãi nhau, anh T không có đánh hay đuổi chị P đi. Ông chỉ biết chị P hỏi mượn tiền người ta nhưng không biết chị P nợ bao nhiêu tiền. Anh T trả nợ cho chị P rất nhiều lần, loay hoay là chị P mượn nợ tiếp nên vợ chồng xảy ra mâu thuẫn và chị P đem con chung đi từ ngày 30/4 cho đến nay. Ông đến nhà cha mẹ ruột chị P 04 lần để năn nỉ cho vợ chồng anh T đoàn tụ nhưng không được, anh T và vợ chồng ông nhớ cháu nội đến thăm cũng không thấy mặt cháu nội Huỳnh T. Gia đình ông giờ cũng không biết cháu Huỳnh T đang ở với ai và sống ở đâu. Theo ông anh T và chị P không thể hàn gắn niếu kéo nhau, vì anh T không có đánh đập chị P, mà chị P còn đem con chung đi giấu không cho gia đình ông gặp mặt. Căn nhà và nền nhà anh T đang quản lý, sử dụng là do ông cất cho khi vợ chồng anh T ra ở riêng. Nhà và nền nhà là ông cho luôn, không phải cho tạm thời. Nay chị P và anh T ly hôn thì ông thống nhất cho anh T tiếp tục quản lý, sử dụng nhà và nền nhà không tranh chấp hay yêu cầu anh trả lại. Nếu chị P yêu cầu anh T chia tài sản chung là căn nhà và nền nhà thì ông không thống nhất cho chị P chia nhà và đất nền nhà, nếu chị P yêu cầu chia thì ông sẽ đòi lại nhà và nền nhà. Khi ông cho nền nhà cũng như cất nhà cho vợ chồng anh T ra ở riêng thì không có nói nếu vợ chồng anh T ly hôn thì nhà và nền nhà phải trả lại cho ông. Còn tài sản khác của vợ chồng anh T thì ông không có ý kiến, tùy vợ chồng anh T quyết định. Ông khẳng định là ông không tranh chấp căn nhà và nền nhà hiện anh T đang quản lý, sử dụng tại ấp B, xã A, huyện HN. Vợ chồng anh T có thiếu nợ ai không thì ông không biết. Do chị P đem con chung đi giấu, không cho anh T và gia đình ông gặp cháu, không cho cháu ông đi học khi tới tuổi nên anh T yêu cầu chị P giao lại con chung cho anh T nuôi dưỡng. Ông muốn cháu nội Huỳnh T về chung sống với anh T, ông sẽ phụ anh T chăm sóc nuôi dưỡng con chung. Anh T làm thuê nhưng từ ngày vợ con bỏ đi, anh T buồn không đi làm, chỉ có mới đi làm được vài tháng nay, anh T cũng không có cho tiền hay gởi tiền cho ông. Khi vợ chồng anh T thuận thảo, thì cháu T do vợ chồng ông nuôi dưỡng, chăm sóc vợ chồng anh T cũng không gởi tiền cho vợ chồng ông để nuôi dưỡng cháu T. Ngoài ra, ông không trình bày gì khác.

Tại biên bản lấy lời khai ngày 24/12/2021 người làm chứng bà Trần Thị B, trình bày: Bà là vợ ông C, mẹ ruột anh T, mẹ chồng chị P. Bà không có mâu thuẫn gì với vợ chồng anh T. Bà có nghe lời trình bày của ông C thống nhất những gì ông C trình bày. Khi chị P bỏ đi, anh T buồn cũng không đi làm thường xuyên, làm cũng không thấy dư, anh T không có đưa tiền hay gởi tiền cho bà giữ dùm cũng như cho tiền vợ chồng bà tiêu xài. Căn nhà và nền nhà mà vợ chồng bà cất cho vợ chồng anh T khi ra ở riêng thì bà không có tranh chấp hay yêu cầu gì. Còn con chung của anh T và chị P thì bà có nguyện vọng cho anh T nuôi dưỡng, vì chị P không có khả năng nuôi dưỡng con chung, khi chị P và anh T còn sống chung với nhau thì cháu Huỳnh T do vợ chồng bà chăm sóc khi vợ chồng anh T đi làm. Nếu anh T được nuôi dưỡng con chung thì bà sẽ phụ anh T chăm sóc con chung. Nợ chung của vợ chồng anh T thì bà không biết. Ngoài ra, bà không trình bày gì thêm.

Tại biên bản lấy lời khai ngày 07/3/2022 bà Phạm Thị Bích Đ, trình bày: Bà không có bà con hay mâu thuẫn gì với chị P, anh T, nhà bà phía trước nhà cha mẹ chị P, bà thấy anh T đến nhà cha mẹ chị P đòi bắt con chung của chị P, anh T. Lúc đó không rõ anh T có uống rượu say hay không nhưng do sợ dịch bệnh nên anh ruột chị P ngăn cản không cho anh T lên nhà. Từ khi chị P bỏ về nhà cha mẹ ruột sống thì dẫn theo cháu Huỳnh T, bà thấy cháu Thương được chăm sóc tốt, có bà ngoại phụ chăm sóc, đưa rước đi học. Hiện tại ngoài cháu T, mẹ chị P cũng có chăm sóc thêm 01 cháu ngoại khác nhưng cha mẹ cháu này cũng sống chung trong nhà. Ngoài ra, trong gia đình còn có anh ruột chị P chăm sóc cháu T. Ngoài ra, bà không trình bày gì thêm.

Tại phiên tòa Kiểm sát viên phát biểu ý kiến: Việc tuân theo pháp luật của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa và việc chấp hành pháp luật của người tham gia tố tụng đúng theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự. Nội dung vụ án: Về hôn nhân đề nghị Hội đồng xét xử công nhận sự thỏa thuận thuận tình ly hôn giữa chị Huỳnh Thị Ngọc P và anh Võ Văn T. Về con chung giao con chung Võ Huỳnh T sinh ngày 29/7/2015 cho chị P được tiếp tục nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục, vì từ khi sống ly thân thì con chung Huỳnh T sống chung và được chị P nuôi dưỡng, chăm sóc tốt; Bên cạnh đó mẹ ruột chị P cũng phụ giúp nuôi dưỡng cháu T; Hơn nữa, cháu T vẫn còn nhỏ nên rất cần sự chăm sóc của mẹ là chị P; Theo xác nhận mức lương của chị P từ công ty TNHH Ryco Packaging thì thu nhập hàng tháng của chị P là: 10.000.000đ, trừ chi phí thì chị còn dư 5.000.000đ, với số tiền này thì chị P đủ khả năng nuôi dạy con chung tốt. Anh T cũng có nguyện vọng được nuôi dưỡng con chung Huỳnh T. Tuy nhiên, nếu được Tòa án giao nuôi con thì anh cũng giao lại cho ông C, bà B nuôi dưỡng chứ anh cũng không có thời gian để chăm sóc. Từ đó cho thấy để ổn định môi trường sống cũng như sự phát triển bình thường của Huỳnh T nên giao con chung cho chị P nuôi dưỡng; anh T không phải cấp dưỡng nuôi con do chị P tự nguyện chưa yêu cầu. Về tài sản chung: Tự thỏa thuận xong nên không đề cập đến. Về nợ chung: Công nhận sự thỏa thuận của các đương sự về việc anh Võ Văn T có nghĩa vụ trả cho Ngân hàng C huyện HN số tiền vay còn nợ là: 50.000.000đ và lãi suất theo khế ước, chị P không phải cùng anh T trả nợ cho Ngân hàng.

Căn cứ vào tài liệu, chứng cứ đã được xem xét tại phiên tòa và kết quả tranh tụng tại phiên tòa và ý kiến phát biểu của Kiểm sát viên. Hội đồng xét xử nhận định:

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Chị Huỳnh Thị Ngọc P có đơn khởi kiện tại Tòa án nhân dân huyện HN yêu cầu giải quyết ly hôn giữa chị và anh Võ Văn T. Hiện anh T đang cư trú tại ấp B, xã A, huyện HN, tỉnh ĐT nên thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện HN, tỉnh ĐT theo quy định tại khoản 1 Điều 51, khoản 1 Điều 53 Luật Hôn nhân và gia đình, khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự.

[2] Người làm chứng bà Phạm Thị Bích Đ đã được triệu tập hợp lệ lần thứ nhất, vắng mặt nhưng bà Bích Đ đã có lời khai với Tòa án nên Hội đồng xét xử xét xử vắng mặt bà Bích Đ theo quy định tại khoản 2 Điều 229 của Bộ luật Tố tụng dân sự.

[3] Về quan hệ hôn nhân giữa chị Huỳnh Thị Ngọc P và anh Võ Văn T được pháp luật công nhận. Vì, có đăng ký kết hôn, theo giấy chứng nhận kết hôn số 028/2014, quyển số 01/2014 ngày 18/8/2014 tại Ủy ban nhân dân xã A, huyện HN, tỉnh ĐT là phù hợp với quy định tại khoản 1 Điều 9 Luật Hôn nhân và gia đình.

[4] Hội đồng xét xử nhận thấy, chị Huỳnh Thị Ngọc P và anh Võ Văn T đều thừa nhận vợ chồng chung sống có mâu thuẫn và không sống chung với nhau từ ngày 30/4/2021 cho đến nay và vợ chồng không có gặp nhau để hàn gắn tình cảm. Xét, trong hôn nhân vợ chồng cần phải thương yêu, tôn trọng, quan tâm, chăm sóc, giúp đỡ nhau; cùng nhau chia sẻ, thực hiện các công việc trong gia đình và phải có nghĩa vụ sống chung cùng nhau, khi Tòa án tiến hành hòa giải cho chị P, anh T được đoàn tụ thì chị P vẫn cương quyết ly hôn và anh T cũng thống nhất ly hôn. Điều này, cho thấy hôn nhân giữa chị P, anh T không thể hàn gắn được, mâu thuẫn trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được. Chị Huỳnh Thị Ngọc P yêu cầu được ly hôn và anh Võ Văn T cũng thống nhất ly hôn, việc thỏa thuận thuận tình ly hôn giữa chị P, anh T là hoàn toàn tự nguyện, không vi phạm điều cấm của luật và không trái đạo đức xã hội phù hợp với quy định tại Điều 55 Luật Hôn nhân và gia đình nên Hội đồng xét xử chấp nhận.

[5] Về việc nuôi con: Chị P, anh T đều yêu cầu được nuôi dưỡng con chung Võ Huỳnh T, sinh ngày 29/7/2015. Hội đồng xét xử nhận thấy, chị P, anh T đều đủ điều kiện để nuôi dưỡng con chung như điều kiện ăn, ở, sinh hoạt, học tập, dạy dỗ, giáo dục con, tình cảm dành cho con, việc làm, thu nhập hàng tháng. Tuy nhiên, yêu cầu được nuôi dưỡng con chung Huỳnh T của anh T là chưa có căn cứ để chấp nhận, vì cháu Huỳnh T đã sinh sống ổn định cùng chị P từ ngày 30/4/2021 đến nay và đã được đảm bảo về mọi mặt. Việc anh T cho rằng chị P và gia đình chị P không có khả năng nuôi dưỡng con chung nhưng không có chứng cứ chứng minh cho lời trình bày của mình. Trong khi, người làm chứng bà Phạm Thị Bích Đ trình bày “bà thấy cháu T được chăm sóc tốt, có bà ngoại phụ chăm sóc, đưa rước đi học”. Do đó, Hội đồng xét xử không chấp nhận yêu cầu được nuôi dưỡng con chung Huỳnh T của anh T. Nghĩ nên, giao con chung Võ Huỳnh T, sinh ngày 29/7/2015 cho chị P được tiếp tục trực tiếp, trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục là đảm bảo tốt về quyền lợi mọi mặt và phát triển bình thường của con chung là phù hợp với quy định tại khoản 2 Điều 81 Luật Hôn nhân và gia đình, khoản 1 Điều 91 của Bộ luật Tố tụng dân sự.

[6] Về cấp dưỡng nuôi con: Anh Võ Văn T không phải cấp dưỡng nuôi con do chị P tự nguyện không yêu cầu là phù hợp với Điều 5 của Bộ luật Tố tụng dân sự nên Hội đồng xét xử không đề cập đến.

[7] Về quyền thăm nom con chung: Sau khi ly hôn, anh T có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở. Anh T lạm dụng việc thăm nom để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con thì chị P có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom con của anh T theo quy định tại khoản 3 Điều 82 Luật Hôn nhân và gia đình.

[8] Về chia tài sản chung: Chị P và anh T thống nhất trình bày, tài sản chung anh chị đã tự thỏa thuận xong nên Hội đồng xét xử không đề cập đến.

[9] Về nợ chung: Ông Nguyễn Kha M, chị Huỳnh Thị Ngọc P, anh Võ Văn T thống nhất thỏa thuận, anh T trả cho Ngân hàng C tiền vay gốc còn nợ 50.000.000đ, tiền lãi tạm tính đến ngày 24/12/2021 là 175.000đ, tổng cộng 50.175.000đ và tiếp tục trả lãi theo khế ước số 6600000718017507 cho đến khi nào trả nợ xong. Xét, việc thỏa thuận của các đương sự là tự nguyện, không vi phạm điều cấm của luật, không trái đạo đức xã hội nên Hội đồng xét xử công nhận sự thỏa thuận của các đương sự là phù hợp với quy định tại Điều 5, Điều 246 của Bộ luật Tố tụng dân sự.

[10] Đề nghị của Kiểm sát viên đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện HN là có căn cứ phù hợp với quy định của pháp luật và nhận định của Hội đồng xét xử nên chấp nhận.

[11] Về án phí dân sự sơ thẩm: Buộc nguyên đơn chị Huỳnh Thị Ngọc P chịu 300.000đ án phí ly hôn được trừ vào tiền tạm ứng án phí đã nộp 300.000đ theo lai thu số 0003761 ngày 07/12/2021 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện HN. Anh Võ Văn T chịu 2.508.500đ (50.175.000đ x 5% = 2.508.500đ) đối với yêu cầu của Ngân hàng C được chấp nhận, án phí trả nợ là phù hợp với quy định tại khoản 4 Điều 147 Bộ luật Tố tụng dân sự, khoản 6 Điều 26, điểm a khoản 5 Điều 27 của Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ Điều 5, khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, khoản 1 Điều 91, khoản 2 Điều 229, khoản 4 Điều 147 của Bộ luật Tố tụng dân sự; khoản 1 Điều 9, Điều 55, khoản 2 Điều 81, khoản 3 Điều 82 Luật Hôn nhân và gia đình; khoản 6 Điều 26, điểm a khoản 5 Điều 27 của Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.

Tuyên xử:

1. Về quan hệ hôn nhân: Công nhận sự thỏa thuận thuận tình ly hôn giữa chị Huỳnh Thị Ngọc P và anh Võ Văn T.

2. Về việc nuôi con:

2.1 Chấp nhận yêu cầu của chị Huỳnh Thị Ngọc P, về việc yêu cầu được nuôi dưỡng con chung Võ Huỳnh T, sinh ngày 29/7/2015. Giao con chung Võ Huỳnh T, sinh ngày 29/7/2015 cho chị P được tiếp tục trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục.

2.2 Anh Võ Văn T không phải cấp dưỡng nuôi con do chị P tự nguyện không yêu cầu.

2.3 Sau khi ly hôn, anh T có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở. Anh T lạm dụng việc thăm nom để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con thì chị P có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom con của anh T.

3. Về nợ chung: Công nhận sự thỏa thuận của các đương sự. Anh Võ Văn T thống nhất trả cho Ngân hàng C tiền vay gốc còn nợ 50.000.000đ, tiền lãi tạm tính đến ngày 24/12/2021 là 175.000đ, tổng cộng 50.175.000đ và tiếp tục trả lãi theo khế ước số 6600000718017507 cho đến khi nào trả nợ xong.

4. Về án phí dân sự sơ thẩm:

4.1 Chị Huỳnh Thị Ngọc P chịu 300.000đ án phí ly hôn được trừ vào tiền tạm ứng án phí đã nộp 300.000đ theo lai thu số 0003761 ngày 07/12/2021 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện HN.

4.2 Anh Võ Văn T chịu 2.508.500đ án phí trả nợ.

5. Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7a, 7b và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

6. Các đương sự có quyền làm đơn kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án (ngày 31 tháng 3 năm 2022).

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

272
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con số 15/2022/HNGĐ-ST

Số hiệu:15/2022/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Hồng Ngự - Đồng Tháp
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 31/03/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;