Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con số 15/2021/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN QUẢNG TRẠCH, TỈNH QUẢNG BÌNH

BẢN ÁN 15/2021/HNGĐ-ST NGÀY 26/07/2021 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON

Ngày 26 tháng 7 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Quảng Trạch, tỉnh Quảng Bình mở phiên Tòa xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số: 29/2021/TLST-HNGĐ ngày 17 tháng 3 năm 2021, về việc “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con”, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 15/2021/QĐXXST-HNGĐ, ngày 09/7/2021, giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Chị Trần Thị H; nơi cư trú: thôn P, xã Q, huyện Q, tỉnh Quảng Bình. Có mặt.

2. Bị đơn: Anh Trần Quốc H; nơi cư trú; thôn P, xã Q, huyện Q, tỉnh Quảng Bình. Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong đơn khởi kiện ngày 17/3/2021, bản tự khai, biên bản phiên họp và hòa giải cũng như tại phiên tòa, nguyên đơn chị Trần Thị H trình bày: Chị và anh Trần Quốc H có quá trình tìm hiểu và đi đến hôn nhân trên cơ sở hoàn toàn tự nguyện, đã đăng ký kết hôn tại UBND xã Q, huyện Q, tỉnh Quảng Bình vào ngày 13/02/2007. Sau khi kết hôn vợ chồng sống chung đầm ấm, hạnh phúc cho đến năm 2014 thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn là do vợ chồng không hợp tính nhau, bất đồng về quan điểm sống, không tôn trọng và tin tưởng lẫn nhau. Anh H thường xuyên rượu chè, say sưa đánh đập chị dẫn đến giữa vợ chồng thường xảy ra xung đột, cãi vã nhau. Do không sống chung được nên vợ chồng đã sống ly thân từ năm 2015 cho đến nay. Mặc dù giữa hai bên đã tìm cách hàn gắn, khắc phục mâu thuẫn nhưng không có kết quả. Hiện tại chị thấy mâu thuẫn vợ chồng đã căng thẳng, sống ly thân đã lâu, tình cảm không còn, không thể trở lại sống chung cùng nhau được vì vậy kiên quyết xin ly hôn với anh H để sớm ổn định cuộc sống bản thân.

Về quan hệ con chung: Theo chị H thì giữa vợ chồng có 02 con chung tên Trần Thị Lan A, sinh ngày 14/9/2007, Trần Thị Bảo N, sinh ngày 12/02/2011. Sau khi ly hôn chị H có nguyện vọng được trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chung và không yêu cầu anh H phải có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con.

Về quan hệ tài sản chung và nợ chung: Chị H trình bày, giữa vợ chồng không có tài sản chung, không vay nợ ai và cũng như không cho ai vay nợ của vợ chồng nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Tại đơn xin xét xử, giải quyết vắng mặt đề ngày 16/6/2021, anh Trần Quốc H trình bày: Về quan hệ hôn nhân thì giữa anh chị Trần Thị H có quá trình tìm hiểu và đi đến hôn nhân trên cơ sở hoàn toàn tự nguyện, đã đăng ký kết hôn tại UBND xã Q, huyện Q, tỉnh Quảng Bình vào ngày 13/02/2007. Sau khi kết hôn vợ chồng sống chung đầm ấm hạnh phúc tại xã Quảng Phương nhưng không được bao lâu thì giữa vợ chồng bắt đầu phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn là do vợ chồng không hợp tính nhau, bất đồng về quan điểm sống, không tôn trọng và tin tưởng lẫn nhau nên giữa vợ chồng thường xảy ra xung đột, cãi vã nhau. Anh nhận thấy cuộc sống hôn nhân như vậy không mang lại hạnh phúc nên nguyện vọng mong muốn xin được ly hôn, đồng ý lý hôn với chị H để mỗi người sớm ổn định cuộc sống bản thân.

Về quan hệ con chung: Theo anh H, thì vợ chồng có 02 con chung tên Trần Thị Lan A, sinh ngày 14/9/2007, Trần Thị Bảo N, sinh ngày 12/02/2011. Sau khi ly hôn, anh H có nguyện vọng giao con chung cho chị H trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục. Do hiện tại kinh tế của anh gặp khó khăn nên không có khả năng cấp dưỡng nuôi con.

Về quan hệ tài sản chung và nợ chung: Anh H trình bày, giữa vợ chồng không có tài sản chung, không vay nợ ai và cũng như không cho ai vay nợ của vợ chồng nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về thủ tục tố tụng: Chị Trần Thị H khởi kiện yêu cầu xin ly hôn đối với anh Trần Quốc H và quyền yêu cầu được nuôi con chung sau khi ly hôn. Vì vậy, xác định đây là tranh chấp về ly hôn, nuôi con thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Quảng Trạch, tỉnh Quảng Bình theo quy định tại khoản 1 Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 35 và điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự.

Anh Trần Quốc H có đơn xin xét xử, giải quyết vắng mặt. Căn cứ vào Điều 227 và Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử xét xử vụ án vắng mặt bị đơn anh Trần Quốc H.

[2] Về quan hệ hôn nhân: Chị Trần Thị H và anh Trần Quốc H kết hôn trên cơ sở tự nguyện, có đăng ký kết hôn tại UBND xã Q, huyện Q, tỉnh Quảng Bình vào ngày 13/02/2007, vì vậy quan hệ hôn nhân là hoàn toàn hợp pháp. Cuộc sống chung hạnh phúc của vợ chồng không được bao lâu đã xảy ra mâu thuẫn, giữa hai người tính tình ngày càng không hợp, bất đồng quan điểm, không tin tưởng và tôn trọng lẫn nhau nên thường xảy ra xung đột, cãi vã nhau; hai bên không tìm được hướng đi chung, không còn quan tâm, lo lắng gì đến nhau, không còn giải pháp hàn gắn. Chị H và anh H xác định thật sự không còn tình cảm gì với nhau, không thể quay lại để tiếp tục sống chung cùng nhau được nữa mà kiên quyết, đồng ý ly hôn.

Xét nguyện vọng mong muốn xin được ly hôn của chị Trần Thị H cũng như xét thấy tình trạng hôn nhân giữa chị H và anh H đã trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được nên chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của chị Trần Thị H. Căn cứ khoản 1 Điều 51, khoản 1 Điều 56 của Luật Hôn nhân và gia đình, xét xử cho chị Trần Thị H được ly hôn anh Trần Quốc H.

[3] Về quan hệ con chung: Giữa chị Trần Thị H và anh Trần Quốc H có 02 con chung Trần Thị Lan A, sinh ngày 14/9/2007, Trần Thị Bảo N, sinh ngày 12/02/2011. Sau khi ly hôn, chị H có nguyện vọng mong muốn được trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chung và anh H cũng thống nhất giao con chung cho chị H nuôi dưỡng. Các cháu Anh, Ngọc cũng có nguyện vọng mong muốn được ở với mẹ. Quá trình giải quyết vụ án cũng như tại phiên tòa, chị H không yêu cầu anh H phải có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con vì hiện tại anh H không có công việc và nguồn thu nhập ổn định, kinh tế khó khăn, không có khả năng chăm sóc, nuôi dưỡng con.

Xét điều kiện, nguyện vọng mong muốn được nuôi con của chị H và yêu cầu, đề nghị của chị H, anh H về việc nuôi con, cấp dưỡng nuôi con chung như vậy là chính đáng, phù hợp với điều kiện, tình hình thực thế và quy định của pháp luật. Hội đồng xét xử căn cứ vào các Điều 58, 81, 82, 83 của Luật Hôn nhân và gia đình, giao con chung cho chị H trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục. Chị H không yêu cầu anh H phải có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con cùng chị nên không xem xét.

[4] Về quan hệ tài sản chung và nợ chung: Chị Trần Thị H và anh Trần Quốc H thống nhất thừa nhận, vợ chồng không có tài sản chung, không vay nợ của ai cũng như không cho ai vay nợ nên không yêu cầu giải quyết, vì vậy Hội đồng xét xử không xem xét.

[5] Về án phí: Căn cứ vào khoản 4 Điều 147 của Bộ luật Tố tụng dân sự; điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH 14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội: Buộc chị Trần Thị H phải chịu 300.000 đồng tiền án phí ly hôn để sung vào ngân sách nhà nước.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1 Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39; khoản 4 Điều 147; Điều 227 và Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự; khoản 1 Điều 51, khoản 1 Điều 56; Điều 58, 81, 82 và Điều 83 của Luật Hôn nhân và gia đình; điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội.

Tuyên xử: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Trần Thị H.

1. Về quan hệ hôn nhân: Xử cho chị Trần Thị H được ly hôn anh Trần Quốc H.

2. Về quan hệ con chung:

2.1. Giao con chung Trần Thị Lan A, sinh ngày 14/9/2007, Trần Thị Bảo N, sinh ngày 12/02/2011 cho chị Trần Thị H trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục.

2.2. Chị H không yêu cầu anh H phải có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chung nên không xem xét.

Sau khi ly hôn, người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở.

3. Về quan hệ tài sản chung và nợ chung: Không xem xét.

4. Về án phí sơ thẩm: Buộc chị Trần Thị H phải chịu 300.000 đồng tiền án phí ly hôn để sung vào ngân sách nhà nước. Số tiền án phí chị H phải chịu được trừ vào tiền tạm ứng án phí 300.000 đồng mà chị đã nộp tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Quảng Trạch, tỉnh Quảng Bình theo biên lai thu số 0001406, ngày 17/3/2021.

Báo cho nguyên đơn có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án sơ thẩm. Báo cho bị đơn có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

139
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con số 15/2021/HNGĐ-ST

Số hiệu:15/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Quảng Trạch - Quảng Bình
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 26/07/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;