Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con số 14/2022/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH HẢI DƯƠNG

BẢN ÁN 14/2022/HNGĐ-ST NGÀY 28/01/2022 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON

Ngày 28 tháng 01 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Hải Dương xét xử sơ thẩm công khai vụ án hôn nhân gia đình thụ lý số 233/2021/TLST- HNGĐ ngày 25/10/2021, về việc “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 245/2021/QĐXXST-HNGĐ ngày 27 tháng 12 năm 2021; Quyết định hoãn phiên tòa số 04/2022/QĐST-HNGĐ ngày 12 tháng 01 năm 2022, giữa:

1. Nguyên đơn: Chị Nguyễn Thị V, sinh năm 1993.

ĐKHKTT và chỗ ở hiện nay: Thôn Đ, xã Q, thị xã K, tỉnh Hải Dương. Vắng mặt và có đơn đề nghị xét xử vắng mặt.

2. Bị đơn: Anh Nguyễn Văn T, sinh năm 1986. Vắng mặt.

Địa chỉ trước khi xuất cảnh: Thôn Đ, xã Q, thị xã K, tỉnh Hải Dương. Hiện đang cư trú tại: Đài Loan.

3. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Bà Nguyễn Thị N, sinh năm 1960. Địa chỉ: Thôn Đ, xã Q, thị xã K, tỉnh Hải Dương Vắng mặt và có quan điểm đề nghị xét xử vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

- Theo đơn xin ly hôn, các bản khai, Nguyên đơn chị Nguyễn Thị V trình bày: Chị và anh Nguyễn Văn T được tự do tìm hiểu, tự nguyện đăng ký kết hôn tại Uỷ ban nhân xã Phúc Thành (nay là xã Q), thị xã K, tỉnh Hải Dương vào ngày 03/9/2013. Sau khi kết hôn vợ chồng chung sống với nhau được một thời gian ngắn thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân là do tính tình vợ chồng không hợp, anh T chơi bời, không quan tâm đến gia đình vợ con, vợ chồng thường xuyên xảy ra cãi nhau. Chị nhiều lần làm đơn xin ly hôn nhưng anh T hứa sẽ thay đổi sửa chữa nên chị lại cho anh cơ hội nhưng anh vẫn chứng nào tật ấy, gia đình hai bên nhiều lần khuyên giải nhưng không có kết quả. Năm 2019 anh T đi xuất khẩu lao động tại Đoài Loan, thời gian đầu anh có liên lạc với chị, sau đó vợ chồng cùng nghi ngờ lẫn nhau cả về kinh tế và tình cảm nên anh, chị không liên lạc với nhau nữa. Vợ chồng sống ly thân từ lâu, không ai quan tâm đến ai. Nay, chị xác định tình cảm vợ chồng không còn và đề nghị Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn anh T.

Về con chung: Vợ chồng có 02 con chung là Nguyễn Gia B, sinh ngày 09/6/2014; Nguyễn Phương V1, sinh ngày 19/8/2018, hiện cháu Nguyễn Gia B đang ở với ông bà nội, cháu Nguyễn Phương V1 đang ở với chị. Chị và anh T có trao đổi thống nhất với nhau, chị trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng cháu Nguyễn Phương V1, anh T nuôi dưỡng cháu Nguyễn Gia B, không ai phải cấp dưỡng tiền nuôi con chung cho nhau. Trong thời gian anh T không có mặt tại Việt Nam chị nhất trí giao cháu Gia Bảo cho bà Nguyễn Thị N chăm sóc, nuôi dưỡng.

Về tài sản, nợ chung: Không có, nên chị không yêu cầu Tòa án giải quyết. Bà Nguyễn Thị N (mẹ đẻ anh T) trình bày: Bà không biết địa chỉ cụ thể của anh T ở nước ngoài nên không cung cấp được cho Tòa án. Tuy nhiên anh T vẫn thường xuyên liên lạc điện thoại về gia đình. Bà đồng ý nhận các văn bản tố tụng của Tòa án và có trách nhiệm thông báo cho anh T biết. Thông qua gia đình, anh T có quan điểm không mong muốn vợ chồng ly hôn để cho các con có chỗ dựa, tuy nhiên chị V cương quyết xin ly hôn, anh T cũng chấp nhận và xác định việc ly hôn là do chị V quyết định. Khi ly hôn anh T có nguyện vọng nuôi dưỡng cháu Nguyễn Gia B, chị V nuôi dưỡng con Nguyễn Phương V1, không ai phải cấp dưỡng tiền nuôi con chung cho nhau. Trong thời gian anh không có mặt tại Việt Nam, anh ủy quyền cho bà nuôi dưỡng con chung và anh có trách nhiệm gửi tiền về để bà nuôi con cho anh. Về tài sản chung anh không yêu cầu Tòa án giải quyết. Bà N nhất trí nhận ủy quyền của anh T về việc chăm sóc, nuôi dưỡng cháu B trong thời gian anh T không có mặt tại Việt Nam, bà không yêu cầu anh, chị phải có trách nhiệm cấp dưỡng. Ngoài ra bà N xác định, trong cuộc sống chị V không tôn trọng anh T, thời gian gần đây chị V chặn không cho anh T liên lạc với chị. Bà không mong muốn vợ chồng ly hôn và đã khuyên bảo nhiều lần nhưng chị V vẫn cương quyết xin ly hôn, bà đề nghị Tòa án giải quyết theo quy định của pháp luật.

Tòa án xác minh tại chính quyền địa phương nơi chị V, anh T đăng ký kết hôn và cư trú thể hiện: Quá trình chung sống vợ chồng có xảy ra xô xát, xích mích, nguyên nhân thế nào địa phương không nắm được, hiện anh T đi xuất khẩu lao động ở nước ngoài đến nay chưa về nước, chị V không sống tại gia đình nhà chồng mà thuê gian quán ra ngoài để ở và làm nghề. Từ khi anh T đi cho đến nay chưa về nước, vợ chồng sống xa cách mỗi người ở một nơi. Nay, chị V có đơn xin ly hôn, địa phương đề nghị Tòa án giải quyết theo quy định của pháp luật sao cho phù hợp với quyền lợi của các đương sự.

Con chung của chị V, anh T là Nguyễn Gia B có nguyện vọng được ở với anh T.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Hải Dương phát biểu quan điểm:

Thẩm phán, Thư ký, Hội đồng xét xử và nguyên đơn đã chấp hành đúng quy định của Bộ luật tố tụng dân sự. Về việc giải quyết vụ án: Đề nghị Hội đồng xét xử: áp dụng Điều 56; 81; 82, 83 Luật Hôn nhân và gia đình; Điều 147 Bộ luật tố tụng dân sự; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu án phí, lệ phí Tòa án: Về quan hệ hôn nhân: Xử cho chị Nguyễn Thị V được ly hôn anh Nguyễn Văn T. Về con chung: Giao con chung Nguyễn Gia B cho anh T nuôi dưỡng và giao con chung Nguyễn Phương V1 cho chị V nuôi dưỡng cho đến khi các con thành niên (tròn 18 tuổi), không ai phải cấp dưỡng tiền nuôi con cho nhau. Tạm giao cháu B cho bà Nguyễn Thị N nuôi dưỡng trong thời gian anh T ở nước ngoài. Chị V phải chịu án phí hôn nhân gia đình theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên toà và xem xét ý kiến của các đương sự, quan điểm đại diện Viện kiểm sát, Hội đồng xét xử nhận định:

[1]. Về tố tụng: Nguyên đơn chị Nguyễn Thị V hiện đang sinh sống ở Việt Nam, bị đơn anh Nguyễn Văn T có nơi cư trú cuối cùng trước khi xuất cảnh tại thôn Đ, xã Q, thị xã K, tỉnh Hải Dương, hiện đang lao động tại Đài Loan. Do vậy, Tòa án nhân dân tỉnh Hải Dương thụ lý, giải quyết là đúng thẩm quyền. Trong quá trình giải quyết vụ án, chị V không cung cấp được địa chỉ cụ thể của anh T ở nước ngoài. Tòa án đã nhiều lần đề nghị gia đình anh T cung cấp địa chỉ nhưng gia đình không cung cấp được. Tòa án cũng tống đạt các văn bản tố tụng cho người thân trong gia đình anh T và gia đình đã thông báo cho anh T biết việc Tòa án đang giải quyết vụ án ly hôn giữa chị V và anh T. Đồng thời Tòa án đã tiến hành niêm yết công khai các văn bản tố tụng theo quy định. Tại phiên tòa lần thứ hai chị V vắng mặt và có đơn đề nghị xét xử vắng mặt; bà N có quan điểm đề nghị xét xử vắng mặt, anh T vắng mặt lần thứ hai không có lý do. Do vậy, căn cứ điểm b khoản 2 Điều 227, khoản 1 Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt các đương sự.

[2]. Về nội dung:

[2.1] Về quan hệ hôn nhân: Chị Nguyễn Thị V và anh Nguyễn Văn T kết hôn trên cơ sở tự nguyện, có đăng ký kết hôn tại Uỷ ban nhân dân xã Phúc Thành (nay là xã Q), thị xã K, tỉnh Hải Dương ngày 03/9/2013 là hôn nhân hợp pháp. Quá trình chung sống vợ chồng có phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân là do anh T chơi bời, không quan tâm đến gia đình vợ con, vợ chồng thường xuyên xảy ra cãi chửi nhau, mâu thuẫn của vợ chồng đã được gia đình hai bên can thiệp, hòa giải nhưng không có kết quả. Năm 2019, anh T đi xuất khẩu lao động tại Đài Loan, vợ chồng tiếp tục xảy ra mâu thuẫn, anh chị đã chấm dứt không liên lạc và không quan tâm đến nhau. Chị V xác định tình cảm vợ chồng không còn, đề nghị Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn anh T. Anh T ở nước ngoài nhưng thông qua gia đình cũng xác định không mong muốn ly hôn nhưng anh không đưa ra được biện pháp để hàn gắn tháo gỡ mâu thuẫn của vợ chồng và anh cũng xác định việc ly hôn là do chị V quyết định. Hội đồng xét xử xét thấy, mâu thuẫn vợ chồng giữa chị V và anh T đã trầm trọng, mục đích hôn nhân không đạt được. Do vậy, cần chấp nhận yêu cầu khởi kiện, xử cho chị V được ly hôn anh T là phù hợp với quy định tại Điều 51 và 56 Luật Hôn nhân và gia đình.

[2.2] Về con chung: Vợ chồng có 02 con chung là Nguyễn Gia B, sinh ngày 09/6/2014; Nguyễn Phương V1, sinh ngày 19/8/2018, hiện cháu Nguyễn Gia B đang ở với ông bà nội, cháu Nguyễn Phương V1 đang ở với chị. Chị V có quan điểm được nuôi dưỡng con chung là Nguyễn Phương V1, thông qua gia đình anh T có quan điểm được nuôi dưỡng con chung là Nguyễn Gia B, đồng thời ủy quyền cho bà N nuôi dưỡng con Nguyễn Gia B trong thời gian anh không có mặt tại Việt Nam. Bà N nhất trí nhận ủy quyền chăm sóc cháu B cho anh T. Xét thấy, chị V nhất trí giao con Nguyễn Gia B cho anh T nuôi dưỡng và nhất trí giao cháu B cho bà N nuôi dưỡng trong thời gian anh T không có mặt tại Việt Nam. Cháu B cũng có nguyện vọng được ở với bố. Anh chị tự nguyện không yêu cầu phải cấp dưỡng tiền nuôi con chung cho nhau. Do vậy, Hội đồng xét xử chấp nhận giao con chung Nguyễn Phương V1 cho chị V nuôi dưỡng, giao con chung Nguyễn Gia B cho anh T nuôi dưỡng cho đến khi các con thành niên (tròn 18 tuổi) là phù hợp với các Điều 81, 82 và 83 Luật Hôn nhân và gia đình; anh T, chị V không phải cấp dưỡng tiền nuôi con chung cho nhau. Trong thời gian anh T không có mặt tại Việt Nam, giao cháu B cho bà N chăm sóc nuôi dưỡng.

[2.3] Về tài sản, nợ chung: Chị V và anh T cùng xác định không yêu cầu nên Hội đồng xét xử không xem xét, giải quyết.

[3]. Về án phí: Chị Nguyễn Thị V phải chịu án phí dân sự sơ thẩm về Hôn nhân gia đình theo quy định tại Điều 147 của Bộ luật tố tụng dân sự, điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Vì những lẽ trên:

QUYẾT ĐỊNH

Áp dụng Điều 51; Điều 56; Điều 81; Điều 82; Điều 83 Luật Hôn nhân và gia đình; Điều 147 Bộ luật tố tụng dân sự; điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Nguyễn Thị V.

1. Về quan hệ hôn nhân: Xử cho chị Nguyễn Thị V ly hôn anh Nguyễn Văn T.

2. Về quan hệ nuôi con: Xử giao cho chị Nguyễn Thị V chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chung là Nguyễn Phương V1, sinh ngày 19/8/2018; giao cho anh Nguyễn Văn T chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chung là Nguyễn Gia B, sinh ngày 09/6/2014 cho đến khi các con tròn 18 tuổi. Anh T, chị V không phải cấp dưỡng tiền nuôi con chung cho nhau. Tạm giao con chung Nguyễn Gia B cho bà Nguyễn Thị N chăm sóc, nuôi dưỡng trong thời gian anh T không có mặt tại Việt Nam.

Sau khi ly hôn, người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở.

3. Về án phí: Chị Nguyễn Thị V phải chịu 300.000đ (ba trăm nghìn đồng) án phí dân sự sơ thẩm (về Hôn nhân gia đình), được đối trừ số tiền tạm ứng án phí 300.000đ (ba trăm nghìn đồng) đã nộp theo biên lai thu số AA/2020/0004559 ngày 22/10/2021 tại Cục thi hành án dân sự tỉnh Hải Dương.

4. Về quyền kháng cáo: Chị Nguyễn Thị V và bà Nguyễn Thị N được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.

Anh Nguyễn Văn T được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 30 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

206
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con số 14/2022/HNGĐ-ST

Số hiệu:14/2022/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Hải Dương
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 28/01/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;