TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ CAO BẰNG, TỈNH CAO BẰNG
BẢN ÁN 136/2021/HNGĐ-ST NGÀY 29/09/2021 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON
Trong ngày 29 tháng 9 năm 2021, tại trụ sở Toà án nhân dân thành phố Cao Bằng, tỉnh Cao Bằng xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 108/2021/TLST-HNGĐ ngày 10 tháng 8 năm 2021 về việc “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 230/2021/QĐXXST- HNGĐ ngày 17 tháng 9 năm 2021 giữa các đương sự:
1. Nguyên đơn: Ông Đặng Khoa Đ - sinh năm 1993.
Trú tại: Thôn V, xã Tiên Lữ, huyện L, tỉnh Vĩnh Phúc; Vắng mặt tại phiên tòa có lý do.
2. Bị đơn: Bà Phạm Thị Hồng Đ - sinh năm 1994.
Trú tại: Tổ a, phường T, thành phố Cao Bằng, tỉnh Cao Bằng; Vắng mặt tại phiên tòa có lý do.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo đơn khởi kiện đề ngày 22/7/2021 và bản tự khai nguyên đơn ông Đặng Khoa Đtrình bày:
Về quan hệ hôn nhân: Ông và bà Phạm Thị Hồng Đ kết hôn ngày 17/5/2017, hôn nhân trên cơ sở tự nguyện, được tìm hiểu, tổ chức lễ cưới ở hai bên gia đình, Đ ký kết hôn tại Uỷ ban nhân dân phường Cổ Nhuế 2, quận Bắc Từ Liêm, thành phố Hà Nội. Sau khi kết hôn, vợ chồng chung sống hạnh phúc đến ngày 20/9/2019 thì phát sinh mâu thuẫn do tính tình không hợp, bất đồng quan điểm sống. Quá trình mâu thuẫn đã được địa phương, cơ quan, gia đình và bản thân hai bên tự hòa giải nhưng không đạt kết quả. Vợ chồng ly thân từ ngày 20/9/2019 cho đến nay. Ông xác định mâu thuẫn vợ chồng đã trầm trọng, không thể hàn gắn được và yêu cầu được ly hôn.
Về con chung: Quá trình chung sống vợ chồng có một con chung là Đặng Châu A (Giới tính: nữ) - sinh ngày: 26/9/2017. Sau khi ly hôn, bà Đ sẽ là người trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc giáo dục con chung cho đến khi con chung đủ 18 tuổi và ông cấp dưỡng nuôi con 2.000.000 đồng/tháng cho đến khi con chung đủ 18 tuổi.
Về tài sản chung, nợ chung: Ông xác nhận trong quá trình chung sống vợ chồng không có tài sản chung, không có nợ chung, không yêu cầu Tòa án giải quyết.
Tại bản tự khai ngày 30/8/2021, bị đơn bà Phạm Thị Hồng Đ trình bày:
Về quan hệ hôn nhân: Bà và ông Đặng Khoa Đ kết hôn ngày 17/5/2017, hôn nhân trên cơ sở tự nguyện, có được tìm hiểu, tổ chức lễ cưới ở hai bên gia đình, Đ ký kết hôn tại Uỷ ban nhân dân phường Cổ Nhuế 2, quận Bắc Từ Liêm, thành phố Hà Nội. Sau khi kết hôn hai vợ chồng chung sống hòa thuận hạnh phúc đến năm 2019 thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân phát sinh mâu thuẫn do bất đồng quan điểm sống. Hai vợ chồng có cãi cọ nhưng không xảy ra xô xát. Khi mâu thuẫn xảy ra hai vợ chồng đã hòa giải nhưng không thành. Hai vợ chồng sống ly thân từ năm 2019 đến nay. Ông Đ yêu cầu ly hôn bà nhất trí.
Về con chung: Quá trình chung sống vợ chồng có một con chung là Đặng Châu A (Giới tính: nữ) - sinh ngày: 26/9/2017. Sau khi ly hôn, bà sẽ là người trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc giáo dục con chung cho đến khi con chung đủ 18 tuổi; ông Đ cấp dưỡng nuôi con 2.000.000 đồng/tháng cho đến khi con chung đủ 18 tuổi.
Về tài sản chung, nợ chung: Bà xác nhận trong quá trình chung sống vợ chồng không có tài sản chung, không có nợ chung, không yêu cầu Tòa án giải quyết.
Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Cao Bằng, tỉnh Cao Bằng phát biểu quan điểm:
Về việc tuân theo pháp luật tố tụng: Thẩm phán, Hội đồng xét xử đã thực hiện đúng theo thủ tục tố tụng dân sự, không có vi phạm trong quá trình giải quyết vụ án kể từ khi thụ lý cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án. Các đương sự tham gia tố tụng trong vụ án đã chấp hành đúng quy định của pháp luật tố tụng dân sự trong quá trình giải quyết vụ án kể từ khi thụ lý cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án.
Về nội dung vụ án: Căn cứ Điều 51, 56, 81, 82, 83 Luật hôn nhân và gia đình 2014 đề nghị Hội đồng xét xử: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Đặng Khoa Đ.
Về quan hệ hôn nhân: Ông Đặng Khoa Đ được ly hôn với bà Phạm Thị Hồng Đ.
Về con chung: Giao con chung Đặng Châu A (Giới tính: nữ) - Sinh ngày: 26/9/2017 cho bà Phạm Thị Hồng Đ trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc giáo dục cho đến khi con chung đủ 18 tuổi. Ông Đặng Khoa Đ có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con 2.000.000 đồng/tháng cho đến khi con chung đủ 18 tuổi.
Về tài sản chung, nợ chung: Các đương sự đều xác nhận không có tài sản chung, không có nợ chung nên không đặt ra vấn đề xem xét, giải quyết.
Về án phí: Ông Đặng Khoa Đ phải chịu án phí dân sự theo quy định của pháp luật.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án, ý kiến của Kiểm sát viên, Hội đồng xét xử xét thấy:
[1]. Về tố tụng: Ông Đặng Khoa Đ viết đơn khởi kiện “Ly hôn, tranh chấp nuôi con chung” với bà Phạm Thị Hồng Đ (trú tại tổ 05, phường T, thành phố Cao Bằng, tỉnh Cao Bằng). Do đó, căn cứ vào khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật tố tụng dân sự thì vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân thành phố Cao Bằng, tỉnh Cao Bằng.
Về sự vắng mặt của các bên đương sự: Các bên đương sự đều có đơn giải quyết vắng mặt tại Tòa án. Do đó, Tòa án nhân dân thành phố Cao Bằng, tỉnh Cao Bằng tiến hành xét xử vắng mặt các bên đương sự theo quy định tại khoản 1 Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự.
[2]. Về quan hệ hôn nhân: Ông Đ và bà Đ kết hôn vào ngày 17/5/2017, hôn nhân trên cơ sở tự nguyện, được tìm hiểu, tổ chức lễ cưới ở hai bên gia đình, đăng ký kết hôn tại Uỷ ban nhân dân phường Cổ Nhuế 2, quận Bắc Từ Liêm, thành phố Hà Nội. Như vậy, quan hệ hôn nhân giữa ông Đ và bà Đ là quan hệ hôn nhân hợp pháp, được pháp luật công nhận và bảo vệ.
[3]. Về yêu cầu ly hôn của nguyên đơn: Sau khi kết hôn, ông Đ bà Đ chung sống hòa thuận hạnh phúc đến ngày 20/9/2019 thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn do vợ chồng bất đồng quan điểm sống, tính tình không hợp. Hai vợ chồng đã hòa giải nhưng không thành và sống ly thân từ ngày 20/9/2019 cho đến nay. Các bên đương sự xác định mâu thuẫn vợ chồng đã trầm trọng, không thể hàn gắn được. Hội đồng xét xử xét thấy giữa ông Đ và bà Đ đã thực sự không còn tình cảm, cuộc sống chung không thể kéo dài, mâu thuẫn đã đến mức độ trầm trọng, mục đích hôn nhân không đạt được nên áp dụng Điều 51, Điều 56 của Luật Hôn nhân và Gia đình chấp nhận đề nghị xin ly hôn của ông Đ.
[4]. Về con chung: Quá trình chung sống, ông Đ và bà Đ có một con chung là Đặng Châu A (Giới tính: Nữ) - Sinh ngày: 26/9/2017.
Theo tài liệu trong hồ sơ vụ án, các đương sự thống nhất sau khi ly hôn, bà Đ sẽ là người trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc giáo dục con chung cho đến khi con chung đủ 18 tuổi. Ông Đ có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con 2.000.000 đồng/tháng cho đến khi con chung đủ 18 tuổi. Như vậy, cần giao con chung cho bà Đ nuôi dưỡng, chăm sóc giáo dục cho đến khi con chung đủ 18 tuổi, ông Đ có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chung.
[5]. Về tài sản chung, nợ chung: Ông Đ và bà Đ đều xác nhận trong quá trình chung sống không có tài sản chung, không có nợ chung, không yêu cầu Tòa án giải quyết. Do đó, Hội đồng xét xử không đặt ra vấn đề xem xét, giải quyết.
[6]. Về án phí: Ông Đ phải chịu án phí dân sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.
[7]. Về quyền kháng cáo: Các bên đương sự có quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên.
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ Điều 51, Điều 56, Điều 81, 82, 83, 84 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014;
Áp dụng khoản 4 Điều 147, khoản 1 Điều 228, 238, 271, 273 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015;
Áp dụng khoản 5, khoản 6 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;
Tuyên xử: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Đặng Khoa Đ.
[1]. Về quan hệ hôn nhân: Ông Đặng Khoa Đ được ly hôn với bà Phạm Thị Hồng Đ.
[2]. Về con chung: Giao con chung là Đặng Châu A (Giới tính: nữ) - sinh ngày 26/9/2017 cho bà Phạm Thị Hồng Đ trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc giáo dục cho đến khi con chung đủ 18 tuổi. Ông Đặng Khoa Đ có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con 2.000.000 đồng/tháng cho đến khi con chung đủ 18 tuổi kể từ khi bản án có hiệu lực pháp luật.
Bên không trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc con chung có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được quyền cản trở nhưng không được lạm dụng việc thăm nom con để gây cản trở hoặc ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chung của người đang trực tiếp nuôi con. Vì quyền lợi về mọi mặt của con, khi có yêu cầu của một hoặc cả hai bên, Tòa án có thể quyết định việc thay đổi người trực tiếp nuôi con, mức cấp dưỡng nuôi con.
[3]. Về tài sản chung, nợ chung: Ông Đặng Khoa Đ và bà Phạm Thị Hồng Đ xác nhận trong quá trình chung sống không có tài sản chung, không có nợ chung, không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét, giải quyết.
[4]. Về án phí: Ông Đặng Khoa Đ phải chịu 300.000 (ba trăm nghìn) đồng tiền án phí dân sự sơ thẩm để sung công quỹ nhà nước đối với yêu cầu xin ly hôn và 300.000 (ba trăm nghìn) đồng tiền án phí đối với người có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con. Nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí dân sự sơ thẩm ông Đặng Khoa Đ đã nộp 300.000 (ba trăm nghìn) đồng theo biên lai số AA/2018/0001118 ngày 10/8/2021 tại Chi cục thi hành án dân sự thành phố Cao Bằng, tỉnh Cao Bằng. Ông Đặng Khoa Đ còn phải nộp thêm số tiền án phí dân sự sơ thẩm 300.000 (ba trăm nghìn) đồng.
[5]. Về quyền kháng cáo: Các đương sự (vắng mặt tại phiên tòa có lý do) có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật
Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con số 136/2021/HNGĐ-ST
Số hiệu: | 136/2021/HNGĐ-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thành phố Cao Bằng - Cao Bằng |
Lĩnh vực: | Hôn Nhân Gia Đình |
Ngày ban hành: | 29/09/2021 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về