Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con số 13/2022/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN MỎ CÀY BẮC, TỈNH BẾN TRE

BẢN ÁN 13/2022/HNGĐ-ST NGÀY 04/03/2022 VỀ LY HÔN TRANH CHẤP NUÔI CON

Ngày 04 tháng 3 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Mỏ Cày Bắc công khai xét xử sơ thẩm vụ án hôn nhân và gia đình thụ lý số 261/2021/TLST-HN ngày 07 tháng 12 năm 2021 về việc “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con” theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 09/2022/QĐST – HNGĐ ngày 21 tháng 02 năm 2022; giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Chị Nguyễn Thị Kim P, sinh năm 1988; Trú tại: Ấp T, xã T, huyện M, tỉnh Bến Tre.

2. Bị đơn: Anh Dương Văn K, sinh năm 1978; Trú tại: Ấp T, xã T, huyện M, tỉnh Bến Tre. Chị  P, anh K có yêu cầu giải quyết vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện, các lời khai trong quá trình giải quyết vụ án nguyên đơn chị Nguyễn Thị Kim P trình bày:

Vào năm 2005, qua mai mối chị và anh K kết hôn, có đăng ký kết hôn vào năm 2006 tại UBND xã T nhưng qua kiểm tra tàn thư hộ tịch tại UBND xã T không tìm thấy. Vợ chồng sống hạnh phúc đươc 02 năm đầu, về sau anh K thường xuyên nhậu nhẹt, say xỉn về chửi bới chị. Chị có khuyên can nhiều lần nhưng anh K không thay đổi còn chửi cha mẹ chị. Nên chị và anh K đã ly thân từ tháng 01/2020 cho đến nay. Nay chị thầy tình cảm vợ chồng không còn nên xin ly hôn với anh K.

Về con chung: có hai con chung tên Dương Mai Huyền T, sinh ngày 04/3/2007 và Dương Mai Phương T1, sinh ngày 18/9/2008. Trong đơn chị ghi nếu con theo chị thì chị nuôi, không yêu cầu anh K cấp dưỡng. Tại bản tự khai chị yêu cầu nếu con theo anh K thì chị không cấp dưỡng.

Về tài sản chung: Không có, không yêu cầu tòa giải quyết. Về nợ chung: Không có, không yêu cầu giải quyết.

Anh Dương Văn K xin vắng mặt tại phiên tòa nhưng có lời khai tại biên bản lấy lời khai ngày 16/02/2022 như sau:

Anh và chị P do tự quen biết và tự nguyện tiến đến hôn nhân, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã T, huyện M, tỉnh Bến Tre vào năm 2006. Sau khi kết hôn, anh chị cất nhà ở riêng và hạnh phúc được 13 năm, sau đó vợ chồng có cãi vã do bất đồng quan điểm sống và chị  P đã bỏ nhà đi đã 02 năm, anh chị đã ly thân 02 năm, chị P và anh không có liên lạc. Nay chị P xin ly hôn anh đồng ý.

Về con chung: có hai con chung tên Dương Mai Huyền T, sinh ngày 04/3/2007 và Dương Mai Phương T1, sinh ngày 18/9/2008 hiện đang sống với anh, ly hôn anh xin nuôi con, không yêu cầu chị P cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung: có 01 vòng ximen, 02 kiềng đeo tay, 04 chỉ vàng 24k(lắc tay) chị P đang giữ, anh không yêu cầu giải quyết.

Về nợ chung: không có.

Tại phiên tòa Kiểm sát viên đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Mỏ Cày Bắc phát biểu:

Việc tuân theo pháp luật của thẩm phán trong quá trình thụ lý vụ án và giải quyết đúng quy định của pháp luật.

Việc tuân theo pháp luật của Hội đồng xét xử tại phiên tòa đúng quy định của pháp luật.

Việc tuân theo pháp luật của đương sự trong quá trình thụ lý và giải quyết nguyên đơn, bị đơn thực hiện đúng quyền và nghĩa vụ của mình.

Về nội dung vụ án: Đề nghị áp dụng điều 51, 56, 81, 82, 83, 84 Luật hôn nhân gia đình năm 2014; Chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn chị Nguyễn Thị Kim P, chị P được ly hôn với anh K; Con chung tên Dương Mai Huyền T , sinh ngày 04/3/2007 và Dương Mai Phương T1, sinh ngày 18/9/2008 anh K nuôi, chị P không cấp dưỡng nuôi con do anh K không yêu cầu; Tài sản chung không yêu cầu giải quyết nên không xem xét; Nợ chung không có nên không xem xét.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, căn cứ vào kết quả thẩm tra tại phiên toà, trên cơ sở xem xét đầy đủ toàn diện chứng cứ, ý kiến của các đương sự, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Quan hệ pháp luật: Căn cứ vào yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn và nội dung vụ án cần giải quyết, Hội đồng xét xử xác định quan hệ pháp luật tranh chấp của vụ án là “Ly hôn, tranh chấp nuôi con” theo quy định tại khoản 1 Điều 28 Bộ luật Tố tụng dân sự.

[2] Thẩm quyền giải quyết: Theo xác nhận của Công an xã T, huyện M, tỉnh Bến Tre ngày 07/12/2021 xác nhận Dương Văn K hiện có đăng ký thường trú tại xã T, huyện Mỏ Cày Bắc, tỉnh Bến Tre. Căn cứ vào khoản 1 Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật Tố tụng dân sự, vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết theo trình tự sơ thẩm của Tòa án nhân dân huyện Mỏ Cày Bắc.

Chị Nguyễn Thị Kim P, anh Dương Văn K có yêu cầu xin xét xử vắng mặt nên căn cứ vào khoản 1 điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự xét xử vắng mặt chị P, anh K.

[3] Về hôn nhân: Chị Nguyễn Thị Kim P, anh Dương Văn K đều trình bày anh chị tự nguyện kết hôn, có đăng ký kết hôn tại UBND xã T, huyện M vào năm 2006 nên hôn nhân của anh chị là hợp pháp, được pháp luật công nhận và bảo vệ. Xét yêu cầu xin ly hôn của chị P, chị P cho rằng vợ chồng chị mâu thuẫn do anh K thường xuyên nhậu nhẹt, say xỉn về chửi bới chị. Chị có khuyên can nhiều lần nhưng anh K không thay đổi còn chửi cha mẹ chị. Nên chị và anh K đã ly thân từ tháng 01/2020 cho đến nay. Nay chị thấy tình cảm vợ chồng không còn nên xin ly hôn với anh K. Trong quá trình giải quyết vụ án chị P vẫn giữ yêu cầu xin ly hôn với anh K. Anh K cho rằng nguyên nhân mất hạnh phúc là do do bất đồng quan điểm sống vợ chồng có cãi vã và chị P đã bỏ nhà đi đã 02 năm, anh chị đã ly thân 02 năm, chị P và anh không có liên lạc. Nay chị P xin ly hôn anh đồng ý.

Sau khi thụ lý vụ án Tòa án tiến hành xác minh nguyên nhân mất hạnh phúc giữa chị P và anh K thì mẹ ruột anh K cho biết chị P và anh K có mâu thuẫn do anh K nghi ngờ chị Pcó người khác nên có cãi vả, chị P bỏ đi đã 02 năm. Qua xác minh tại cán bộ tư pháp của UBND xã T cho biết giữa chị P và anh K có mâu thuẫn dẫn đến cãi vã. Như vậy, giữa chị P và anh K mâu thuẫn là có thật. Anh chị là vợ chồng nhưng không quan tâm, chăm sóc lẫn nhau, không thực hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ vợ chồng, thấy rằng mâu thuẫn giữa chị P và anh K đã trầm trọng, muïc ñích hoân nhaân giöõa hai anh chò khoâng ñaït ñöôïc ñôøi soáng chung khoâng theå keùo daøi neân chaáp nhaän yeâu caàu của chị P là phù hợp.

[4] Về con chung: Chị P và anh K có 02 con chung tên Dương Mai Huyền T, sinh ngày 04/3/2007 và Dương Mai Phương T1, sinh ngày 18/9/2008. Chị P trình bày nếu con theo chị thì chị nuôi, không yêu cầu anh K cấp dưỡng nếu con theo anh K thì chị không cấp dưỡng. Anh K trình bày hiện đang sống với anh K, ly hôn anh K xin nuôi con, không yêu cầu chị P cấp dưỡng nuôi con. Xét thấy, việc thỏa thuận của chị P, anh K là tự nguyện phù hợp với nguyện vọng của cháu Huyền T, Phương T1 tại biên bản lấy ý kiến con chưa thành niên ngày 16/02/2022 nên Hội đồng xét xử chấp nhận giao cháu Dương Mai Huyền T, sinh ngày 04/3/2007 và Dương Mai Phương T1, sinh ngày 18/9/2008 cho anh K trực tiếp nuôi, ghi nhận anh K không yêu cầu chị P cấp dưỡng nuôi con.

[5] Về tài sản chung: Chị P trình bày không có tài sản chung; anh K trình bày tài sản chung là có 01 vòng ximen, 02 kiềng đeo tay, 04 chỉ vàng 24k (lắc tay) chị P đang giữ, anh không yêu cầu giải quyết. Do các đương sự không có yêu cầu giải quyết tài sản chung nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết trong cùng vụ án.

[6] Về nợ chung: Chị P, anh K trình bày không có nên không xem xét.

[7] Án phí : Do yêu cầu xin ly hôn của chị P được chấp nhận nên chị P phải chịu án phí theo qui định là 300.000 đồng.

[8] Xét đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Mỏ Cày Bắc phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên chấp nhận.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào Điều 227, 228 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015;

Các Điều 51, 56, 81, 82, 83, 84 Luật hôn nhân gia đình năm 2014;

Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội.

1. Về hôn nhân: Chấp nhận yêu cầu của chị Nguyễn Thị Kim P.

Chị Nguyễn Thị Kim P được ly hôn với anh Dương Văn K.

2. Về con chung: Anh K trực tiếp nuôi con chung tên Dương Mai Huyền T, sinh ngày 04/3/2007 và Dương Mai Phương T1, sinh ngày 18/9/2008, chị P không phải cấp dưỡng nuôi con do anh K không yêu cầu.

Sau khi ly hôn, cha, mẹ vẫn có quyền, nghĩa vụ trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chưa thành niên, con đã thành niên mất năng lực hành vi dân sự hoặc không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình theo quy định của Luật Hôn nhân và gia đình và các luật khác có liên quan. Người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở. Người không trực tiếp nuôi con lạm dụng việc thăm nom để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con thì người trực tiếp nuôi con có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom con của người đó.

Người trực tiếp nuôi con có quyền yêu cầu người không trực tiếp nuôi con thực hiện các nghĩa vụ theo quy định tại điều 82 Luật Hôn nhân và gia đình, yêu cầu người không trực tiếp nuôi con cùng các thành viên gia đình tôn trọng quyền được nuôi con của mình. Người trực tiếp nuôi con cùng các thành viên gia đình không được cản trở người không trực tiếp nuôi con trong việc thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con. Trường hợp có yêu cầu của cha, mẹ hoặc cá nhân, tổ chức quy định tại khoản 5 điều 84 Luật Hôn nhân và gia đình, Tòa án có thể quyết định thay đổi người trực tiếp nuôi con, mức cấp dưỡng nuôi con.

3. Về tài sản chung: Chị P, anh K trình bày không yêu cầu giải quyết nên không xem xét.

4. Về nợ chung: Chị P, anh K trình bày không có nên không xem xét.

5. Án phí: Chị Nguyễn Thị Kim P phải nộp án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm là 300.000 (ba trăm nghìn) đồng nhưng được trừ vào tiền tạm ứng án phí đã nộp 300.000 ( ba trăm nghìn) đồng tại biên lai thu số 0002431 ngày 07 tháng 12 năm 2021 của Chi cục thi hành án dân sự huyện Mỏ Cày Bắc nên không phải nộp thêm.

6. Nguyên đơn, bị đơn vắng mặt có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ có quyền kháng cáo bản án kể từ ngày bản án được tống đạt hợp lệ để yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh Bến Tre xét xử phúc thẩm.

7. Trường hợp Bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7, 7a và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

179
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con số 13/2022/HNGĐ-ST

Số hiệu:13/2022/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Mỏ Cày Bắc - Bến Tre
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 04/03/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;