Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con số 112/2022/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ THỦ DẦU MỘT, TỈNH BÌNH DƯƠNG

BẢN ÁN 112/2022/HNGĐ-ST NGÀY 26/09/2022 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON

Ngày 26 tháng 9 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Thủ Dầu Một, tỉnh Bình Dương, Tòa án nhân dân thành phố Thủ Dầu Một mở phiên tòa xét xử sơ thẩm công khai vụ án hôn nhân và gia đình thụ lý số 318/2022/TLST-HNGĐ ngày 27 tháng 7 năm 2022 về việc “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con”, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 78/2022/QĐXXST-HNGĐ ngày 15 tháng 8 năm 2022 và Quyết định hoãn phiên tòa số 53/2022/QĐST-HNGĐ ngày 07 tháng 9 năm 2022, giữa các đương sự:

  1. Nguyên đơn: Anh Lê Minh T, sinh năm 1988; cư trú tại:

Số nhà MBCH/MNM/BS/N, Tổ HB, đường LCD, Khu phố H, phường T, thành phố T, tỉnh Bình Dương, có đơn đề nghị giải quyết vắng mặt.

2. Bị đơn: Chị Lê Thanh Th, sinh năm 1985;

HKTT: Số NB/MB, Khu phố CL6, phường C, thành phố T, tỉnh Bình Dương; địa chỉ liên lạc: Số nhà MBH/MHB/HT, đường CM, khu phố CL3, phường C, thành phố T, tỉnh Bình Dương, vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

[1] Theo đơn khởi kiện ngày 19 tháng 5 năm 2022 và trong quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn anh Lê Minh T trình bày:

Về quan hệ hôn nhân: Anh T và chị Lê Thanh Th chung sống và đăng ký kết hôn với nhau từ năm 2016 tại Ủy ban nhân dân phường C, thành phố T, tỉnh Bình Dương, theo Giấy chứng nhận kết hôn số 02, ngày 27 tháng 01 năm 2016.

Thời gian đầu chung sống, vợ chồng hòa thuận, hạnh phúc. Tuy nhiên, thời gian gần đây vợ chồng liên tục xảy ra những mâu thuẫn, tranh cãi gay gắt mà nguyên nhân chủ yếu xuất phát từ việc tính tình không hợp nhau và quan điểm sống quá khác biệt.

Anh T nhận thấy rằng sẽ khó có thể tiếp tục xây dựng một gia đình hòa thuận, hạnh phúc như mong muốn trong tình trạng mâu thuẫn trầm trọng như vậy. Từ năm 2020, chị Th bỏ nhà đi, từ đó vợ chồng đã sống ly thân cho đến nay nên tình cảm vợ chồng không còn, mục đích hôn nhân không đạt được, chỉ còn ràng buộc với nhau về mặt pháp lý nên anh T yêu cầu được ly hôn với chị Th.

Về con chung: Anh T và chị Th có 01 con chung là cháu Lê Ngọc Như Q, sinh ngày 09/11/2015. Từ khi ly thân đến nay, cháu Q vẫn đang sinh sống cùng anh T. Vì vậy, sau khi ly hôn, anh T yêu cầu được trực tiếp nuôi dưỡng cháu Q; không yêu cầu chị Th phải cấp dưỡng.

Về tài sản chung và nợ chung: Không yêu cầu Tòa án giải quyết.

[2]. Bị đơn chị Lê Thanh Th mặc dù đã được Tòa án triệu tập hợp lệ nhiều lần để làm việc, tham gia hòa giải tham gia phiên tòa nhưng vẫn vắng mặt không có lý do và cũng không gửi văn bản ghi ý kiến của mình cho Tòa án nên Tòa án không thể ghi nhận ý kiến của chị Th được.

Tại phiên tòa, - Nguyên đơn anh Lê Minh T có đơn đề nghị giải quyết vắng mặt.

- Bị đơn chị Lê Thanh Th vắng mặt không có lý do.

- Ý kiến của Kiểm sát viên tham gia phiên tòa:

+ Về tuân theo pháp luật tố tụng: Từ khi thụ lý vụ án đến khi khai mạc phiên tòa sơ thẩm, Thẩm phán, Thư ký đã tiến hành tố tụng đúng quy định của pháp luật, nguyên đơn đã thực hiện đúng quyền và nghĩa vụ tố tụng của mình theo quy định pháp luật, riêng bị đơn chị Lê Thanh Th đã được Tòa án tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng nhưng không tham gia phiên tòa nên Tòa án xét xử vắng mặt chị Lê Thanh Th là đúng quy định tại Điều 227 của Bộ luật Tố tụng dân sự. Tại phiên tòa sơ thẩm, Hội đồng xét xử đã thực hiện đầy đủ thẩm quyền theo quy định đối với những người tiến hành tố tụng. Do nguyên đơn anh Lê Minh T có đơn đề nghị giải quyết vắng mặt nên Tòa án xét xử vắng mặt tất cả những người tham gia tố tụng là đúng theo quy định tại Điều 238 của Bộ luật Tố tụng dân sự. Kiểm sát viên không kiến nghị khắc phục gì thêm.

+ Về việc giải quyết vụ án: Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ vào các Điều 56, 81, 82, 83 và 84 của Luật hôn nhân và Gia đình, chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Về tố tụng:

[1.1] Về quan hệ pháp luật: Ngày 19 tháng 5 năm 2022, anh Lê Minh T có đơn khởi kiện yêu cầu được ly hôn với chị Lê Thanh Th và yêu cầu được trực tiếp nuôi dưỡng con chung nên đây là vụ án “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con” theo quy định tại Điều 51, Điều 53 của Luật Hôn nhân và Gia đình.

[1.2] Về thẩm quyền: Tại thời điểm thụ lý, bị đơn chị Lê Thanh Th đang cư trú tại thành phố Thủ Dầu Một, tỉnh Bình Dương nên căn cứ vào khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự thì đây là vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân thành phố Thủ Dầu Một, tỉnh Bình Dương.

[1.3] Về việc tham gia phiên tòa của đương sự: Tại phiên tòa, nguyên đơn anh Lê Minh T có đơn đề nghị giải quyết vắng mặt; bị đơn chị Lê Thanh Th vắng mặt không có lý do mặc dù đã được triệu tập đến tham dự phiên tòa lần thứ hai. Vì vậy, căn cứ vào khoản 2 Điều 227, Điều 238 của Bộ luật Tố tụng dân sự, Tòa án nhân dân thành phố Thủ Dầu Một tiến hành xét xử vụ án vắng mặt tất cả các đương sự.

[2] Xét yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, Hội đồng xét xử xét thấy:

[2.1] Về quan hệ hôn nhân: Anh T và chị Th chung sống với nhau từ năm 2015, ngày 27/01/2016 anh T và chị Th đăng ký kết hôn với nhau tại tại Ủy ban nhân dân phường C, thành phố T, tỉnh Bình Dương. Việc chung sống và đăng ký kết hôn giữa anh T và chị Th là hoàn toàn tự nguyện, không bên nào bị ép buộc nên đã tuân thủ đúng quy định tại Điều 9 của Luật Hôn nhân và Gia đình, do đó hôn nhân giữa anh T và chị Th là hợp pháp, được pháp luật công nhận và bảo vệ.

Quá trình chung sống, anh T xác định vợ chồng chỉ chung sống hạnh phúc được thời gian đầu, thời gian gần đây thì vợ chồng có nhiều mâu thuẫn mà nguyên nhân là do bất đồng quan điểm sống và mâu thuẫn vợ chồng ngày càng trầm trọng; từ năm 2020 anh T và chị Th đã ly thân với nhau, không ai còn quan tâm đến ai nữa. Việc, anh T và chị Th không còn quan tâm, thương yêu, chăm sóc và giúp đỡ lẫn nhau và không cùng nhau chia sẻ, thực hiện các công việc trong gia đình dẫn đến tình cảm vợ chồng không còn là đã vi phạm nghiêm trọng quyền và nghĩa vụ của vợ chồng theo quy định tại Điều 19 của Luật Hôn nhân và Gia đình. Hơn nữa, quá trình giải quyết vụ án, Tòa án đã triệu tập hợp lệ chị Th để Tòa án tiến hành hòa giải đoàn tụ gia đình nhưng chị Th vẫn cố tình vắng mặt, điều này chứng tỏ chị Th không có thiện chí mong muốn gia đình được đoàn tụ.

Như vậy, có đủ cơ sở khẳng định, hôn nhân giữa anh T và chị Th đã lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được nên căn cứ vào Điều 56 Luật Hôn nhân và Gia đình, cần chấp nhận yêu cầu của anh T, cho anh T được ly hôn với chị Th.

[2.2] Về con chung: Anh T và chị Th có 01 con chung là cháu Lê Ngọc Như Q, sinh ngày 09/11/2015; sau khi ly hôn, anh T yêu cầu được trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc con chung, không yêu cầu chị Th phải cấp dưỡng. Xét thấy, quá trình giải quyết vụ án anh T trình bày: Từ năm 2020, chị Th bỏ nhà đi, từ đó cho đến nay cháu Q vẫn đang trực tiếp sinh sống với anh T; còn chị Th không đến Tòa án làm việc nên không biết được nguyện vọng và khả năng của chị Th về phần con chung là như thế nào. Vì vậy, để cháu Q có điều kiện phát triển lành mạnh, ổn định về thể chất, trí tuệ, đạo đức, trở thành người con hiếu thảo của gia đình, công dân có ích cho xã hội, cần giao cháu Q cho anh T trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc là phù hợp với quy định tại Điều 81 của Luật Hôn nhân và Gia đình nên yêu cầu của anh T về phần con chung được chấp nhận.

[2.3] Về tài sản chung và nợ chung: Các đương sự không yêu cầu nên không xem xét giải quyết.

[3] Tại Tòa, quan điểm giải quyết vụ án của Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thủ Dầu Một là có cơ sở.

[4]. Án phí dân sự sơ thẩm: Căn cứ Điều 147 của Bộ luật Tố tụng dân sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội khóa 14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án: Anh T phải chịu 300.000 đồng; chị Th không phải chịu.

Vì các lẽ trên

QUYẾT ĐỊNH

- Căn cứ khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35 và điểm a khoản 1 Điều 39, các Điều 147, 227, 238, 266, 267, 271 và 273 của Bộ luật Tố tụng dân sự;

- Căn cứ các Điều 56, 81, 82, 83 và 84 của Luật Hôn nhân và Gia đình;

- Căn cứ Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.

1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn anh Lê Minh T về việc “Ly hôn, tranh chấp về con chung” đối với bị đơn là chị Lê Thanh Th.

1.1. Về quan hệ hôn nhân: Anh Lê Minh T được ly hôn với chị Lê Thanh Th.

1.2. Về con chung: Anh Lê Minh T được trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc con chung là cháu Lê Ngọc Như Q, sinh ngày 09/11/2015.

1.3. Về cấp dưỡng nuôi con chung: Không xem xét giải quyết.

1.4. Người không trực tiếp nuôi con có quyền và nghĩa vụ đi lại, thăm nom, chăm sóc, giáo dục con chung mà không ai có quyền cấm đoán, ngăn cản. Vì lợi ích mọi mặt của con chưa thành niên, các bên có quyền yêu cầu mức cấp dưỡng, xin thay đổi người trực tiếp nuôi con nếu có căn cứ cho rằng bên kia không đáp ứng được quyền lợi của con.

1.5. Về tài sản chung và nợ chung: Không xem xét giải quyết.

2. Về án dân sự sơ thẩm: Anh Lê Minh T phải nộp 300.000 (ba trăm ngàn) đồng; được khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí anh Lê Minh T đã nộp là 300.000 (ba trăm ngàn) đồng theo Biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số 0001640 ngày 15/7/2022 của Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Thủ Dầu Một, tỉnh Bình Dương.

3. Các đương sự được quyền kháng cáo bản án này trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết theo quy định./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

37
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con số 112/2022/HNGĐ-ST

Số hiệu:112/2022/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Thủ Dầu Một - Bình Dương
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 26/09/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;