TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ KON TUM, TỈNH KON TUM
BẢN ÁN 11/2024/HNGĐ-ST NGÀY 09/04/2024 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON
Trong ngày 09 tháng 4 năm 2023, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố T, tỉnh T xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 172/2023/TLST- HNGĐ ngày 10 tháng 11 năm 2023, về việc "Ly hôn và tranh chấp nuôi con’’ theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 11/2024/QĐXXST-HNGĐ ngày 05 tháng 3 năm 2024; Quyết định hoãn phiên toà số 69/2024/QĐST-HNGĐ, ngày 22/3/2024, giữa các đương sự:
1. Nguyên đơn: Chị Hà Thị Duy T, sinh năm 1995 (Có mặt).
Địa chỉ: Số 09 Phùng Hưng, phường Duy Tân, thành phố T, tỉnh T.
2. Bị đơn: Anh Nguyễn Ngọc Duy K, sinh năm 1988 (Vắng mặt).
Địa chỉ: Số 05 Bà Triệu, phường T, thành phố T, tỉnh Kon Tum.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Trong đơn khởi kiện ngày 24/10/2023, trong quá trình giải quyết vụ án nguyên đơn chị Hà Thị Duy T trình bày và yêu cầu Tòa án giải quyết những vấn đề sau:
- Về vụ việc hôn nhân: Chị Hà Thị Duy T và anh Nguyễn Ngọc Duy K kết hôn với nhau vào năm 2018. Khi kết hôn, chị T và anh K có làm thủ tục đăng ký kết hôn và được UBND phường T, thành phố T, tỉnh T cấp Giấy chứng nhận kết hôn vào ngày 03 tháng 5 năm 2018. Sau khi kết hôn, anh, chị về chung sống tại số 05 Bà Triệu, phường T, thành phố T, tỉnh T, đến ngày 01 tháng 3 năm 2020 thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn là do: Anh K thường xuyên tụ tập bạn bè để ăn nhậu, chơi bời không lo lắng giúp đỡ vợ con. Hai vợ chồng cũng không hòa hợp với nhau về tính cách thường xuyên xúc phạm lẫn nhau, cuộc sống hôn nhân không hạnh phúc, không đạt được mục đích chung sống nên chị yêu cầu Tòa giải quyết cho chị được ly hôn với anh Nguyễn Ngọc Duy K.
- Về con chung: Vợ chồng có 01 con chung là Nguyễn Hà An N, sinh ngày 07 tháng 7 năm 2019. Vợ chồng ly hôn, chị T có nguyện vọng nuôi con, tại đơn khởi kiện chị yêu cầu anh K cấp dưỡng nuôi con 3.000.000 đồng/tháng nhưng trong quá trình giải quyết vụ án chị rút yêu cầu này và tại phiên tòa hôm nay chị cũng không yêu cầu anh K phải đóng góp nuôi con.
- Về tài sản chung: Chị không yêu cầu giải quyết. Nợ chung: Không.
Đối với bị đơn anh Nguyễn Ngọc Duy K đã được Tòa án tống đạt văn bản tố tụng hợp lệ như thông báo thụ lý, giấy triệu tập, thông báo về phiên hòa giải, Quyết định xét xử nhưng anh K không có ý kiến gì và cũng không cung cấp tài liệu chứng cứ gì để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình nên Hội đồng xét xử giải quyết vụ án theo thủ tục chung.
* Ý kiến của đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố T, tỉnh T tham gia phiên tòa:
1. Việc Tuân theo pháp luật tố tụng:
- Về quan hệ tranh chấp: Căn cứ vào khởi kiện của chị Hà Thị Duy T xác định quan hệ tranh chấp là “ Ly hôn, tranh chấp nuôi con” được quy định tại khoản 1 Điều 28 BLTTDS 2015.
- Về thẩm quyền thụ lý vụ án: Bị đơn anh Nguyễn Ngọc Duy K có hộ khẩu thường trú tại số 05 Bà Triệu, phường T, thành phố T, tỉnh T nên Tòa án nhân dân thành phố T thụ lý, giải quyết đúng theo quy định điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39 BLTTDS 2015.
2. Việc tuân theo pháp luật tố tụng của Hội đồng xét xử, thư ký phiên tòa: Hội đồng xét xử, thư ký phiên tòa đã thực hiện đúng quy định của Bộ luật tố tụng dân sự và các văn bản liên quan.
3. Việc chấp hành pháp luật tố tụng:
Nguyên đơn chị Hà Thị Duy T đã thực hiện đúng các quyền và nghĩa vụ quy định tại Điều 70; Điều 71 BLTTDS 2015.
Bị đơn anh Nguyễn Ngọc Duy K đã được tòa án tống đạt, triệu tập hợp lệ các văn bản tố tụng nhưng vắng mặt tại các buổi làm việc, phiên hòa giải là không chấp hành đầy đủ quyền, nghĩa vụ của bị đơn được quy định tại Điều 70,72 BLTTDS 2015.
4. Về việc giải quyết vụ án:
Căn cứ khoản 1 Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39; Điều 147; Điều 203, Điều 227, Điều 235, 266 Bộ luật tố tụng dân sự;
Căn cứ Điều 51; Điều 56, 57; Điều 81; Điều 82; Điều 83, 84 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014;
Căn cứ Điều 24; điểm a khoản 5 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Đề nghị Tòa án xử: Chấp nhận đơn khởi kiện của chị Hà Thị Duy T, xử cho chị Hà Thị Duy T và anh Nguyễn Ngọc Duy K được ly hôn.
- Về con chung: Giao cháu Nguyễn Hà An N, sinh ngày 07 tháng 7 năm 2019 cho chị Hà Thị Duy T chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục. Không yêu cầu cấp dưỡng nuôi con.
- Về tài sản chung, nợ chung: Không yêu cầu giải quyết nên không đề cập tới.
- Về án phí dân sự sơ thẩm: Chị T phải chịu án phí ly hôn sơ thẩm theo quy định của pháp luật.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa, trên cơ sở tranh luận tại phiên tòa, hội đồng xét xử nhận định:
[1] Về quan hệ tranh chấp và thẩm quyền giải quyết vụ án:
[1.1] Về quan hệ tranh chấp: Chị Hà Thị Duy T khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết, về việc xin ly hôn và chia con chung. Do đó, Tòa án xác định quan hệ tranh chấp phải giải quyết là “Ly hôn, tranh chấp nuôi con”theo quy định định tại khoản 1 Điều 28 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015.
[1.2] Về thẩm quyền: Bị đơn anh Nguyễn Ngọc Duy K có nơi cư trú tại: Số 05 Bà Triệu, phường T, thành phố T, tỉnh T. Do đó, vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân thành phố T theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015.
[2] Về thủ tục tố tụng:
Tại phiên tòa ngày 22/3/2024 bị đơn anh K vắng mặt lần thứ nhất không có lý do và tại phiên toà hôm nay (09/4/2024) Toà án đã tống đạt hợp lệ Quyết định đưa vụ án ra xét xử, quyết định hoãn phiên tòa cho bị đơn, nhưng anh K vẫn vắng mặt không có lý do. Vì vậy căn cứ vào điểm b khoản 2 Điều 227, khoản 3 Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự, Toà án xét xử vắng mặt anh K.
[3]. Về nội dung:
Về quan hệ hôn nhân: Chị Hà Thị Duy T và anh Nguyễn Ngọc Duy K tự nguyện kết hôn với nhau và có đăng ký kết hôn tại UBND phường T, thành phố T, tỉnh T vào ngày 03 tháng 5 năm 2018. Do đó, quan hệ hôn nhân giữa chị T và anh K là hôn nhân hợp pháp.
Xét quá trình chung sống của vợ chồng chị T và anh K đã phát sinh nhiều mâu thuẫn, nguyên nhân là do anh K không chăm lo xây dựng hạnh phúc gia đình mà còn ham chơi, tụ tập bạn bè ăn nhậu thường xuyên. Chị T đã nhiều lần góp ý để anh K sửa chữa khuyết điểm nhưng anh K không nghe mà còn chửi bới, xúc phạm lẫn nhau dẫn đến mâu thuẫn gia đình căng thẳng, vợ chồng phải sống ly thân mỗi người mỗi nơi.
Trong quá trình giải quyết vụ án, Tòa án đã nhiều lần tống đạt các văn bản tố tụng của Tòa án cho anh K đến Tòa án để hòa giải nhưng anh K không đến Tòa làm việc, như vậy anh K đã bỏ mặc việc ly hôn với chị T.
Xét mâu thuẫn của vợ chồng chị T và anh K đã đến mức trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được, việc chung sống sẽ không đem lại hạnh phúc cho cả hai bên. Nguyện vọng của chị T tha thiết xin ly hôn với anh K là phù hợp với quy định khoản 1, Điều 51, khoản 1 Điều 56 của Luật hôn nhân và gia đình năm 2014. Do đó, xét chấp nhận đơn khởi kiện của chị Hà Thị Duy T được ly hôn với anh Nguyễn Ngọc Duy K.
[3] Về con chung: Cháu Nguyễn Hà An N, sinh ngày 07 tháng 7 năm 2019 hiện đang do chị T nuôi dưỡng, chị T có thu nhập ổn định. Để tạo điều kiện phát triển toàn diện cho cháu về thể chất và tinh thần, xét giao cho chị T trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục cháu Nguyễn Hà An N cho đến khi đủ 18 tuổi và có khả năng lao động. Về cấp dưỡng nuôi con chị T không yêu cầu anh K phải cấp dưỡng.
[4] Về tài sản chung, nợ chung: Chị T không yêu cầu giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét.
[5] Về án phí dân sự sơ thẩm: Chị T phải chịu 300.000 đồng án phí ly hôn sơ thẩm.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39; điểm b khoản 2 Điều 227, khoản 3 Điều 228, Điều 271 và Điều 273 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015.
Căn cứ khoản 1 Điều 51; khoản 1 Điều 56; Điều 81, 82, 83 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014.
Xử:
1. Chấp nhận đơn khởi kiện đề ngày 24/10/2023 của chị Hà Thị Duy T về việc “Ly hôn, tranh chấp nuôi con” đối với anh Nguyễn Ngọc Duy K.
- Về Quan hệ hôn nhân: Chị Hà Thị Duy T được ly hôn với anh Nguyễn Ngọc Duy K.
- Về con chung: Chị Hà Thị Duy T trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chung là Nguyễn Hà An N, sinh ngày 07 tháng 7 năm 2019 cho đến khi đủ 18 tuổi và có khả năng lao động. Anh K chưa phải cấp dưỡng nuôi con.
Anh Nguyễn Ngọc Duy K có quyền đi lại thăm nom, chăm sóc con chung, không ai được cản trở. Không ai được lạm dụng việc thăm nom để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con.
2 . Về án phí: Căn cứ Điều 144, Điều 147 Bộ luật tố tụng dân sự; Điều 6;
khoản 1 Điều 24; điểm a khoản 5, khoản 6 Điều 27 Nghị quyết số:
326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án. Chị Hà Thị Duy T phải chịu 300.000 (Ba trăm nghìn) đồng tiền án phí ly hôn sơ thẩm, được trừ vào số tiền 300.000 đồng đã tạm nộp theo Biên lai thu số: 0000560 ngày 10/11/2023 của Chi cục Thi hành án dân sự thành phố T.
3. Về quyền kháng cáo: Chị T được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án (09/4/2024). Anh K vắng mặt tại phiên tòa, thì thời hạn kháng cáo 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết công khai.
Bản án 11/2024/HNGĐ-ST về ly hôn, tranh chấp nuôi con
Số hiệu: | 11/2024/HNGĐ-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thành phố Kon Tum - Kon Tum |
Lĩnh vực: | Hôn Nhân Gia Đình |
Ngày ban hành: | 09/04/2024 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về