Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con số 103/2022/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH HẢI DƯƠNG

BẢN ÁN 103/2022/HNGĐ-ST NGÀY 24/06/2022 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON

Ngày 24 tháng 6 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Hải Dương xét xử sơ thẩm công khai vụ án hôn nhân gia đình thụ lý số 146/2022/TB-TA ngày 17 tháng 5 năm 2022, về việc “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con”. Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 132/2022/QĐXXST-HNGĐ ngày 07 tháng 6 năm 2022, giữa:

1. Nguyên đơn: Chị Nguyễn Thị S, sinh năm 1990.

Địa chỉ trước khi xuất cảnh: Thôn H, xã L, huyện T, tỉnh Hải Dương. Hiện đang cư trú tại: Đài Loan (Trung Quốc).

2. Bị đơn: Anh Hà Thế T, sinh năm 1980.

ĐKHKTT và chỗ ở hiện nay: Thôn L, xã H, huyện N, tỉnh Hải Dương.

3. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đồng thời là người được chị S ủy quyền về việc giao, nhận văn bản tố tụng của Tòa án: Ông Nguyễn Khắc Tr, sinh năm 1964. Địa chỉ: Thôn H, xã L, huyện T, tỉnh Hải Dương.

Các đương sự đều vắng mặt và có đơn đề nghị xét xử vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

- Theo đơn xin ly hôn, bản tự khai và các tài liệu có trong hồ sơ vụ án, nguyên đơn chị Nguyễn Thị S trình bày: Chị và anh Hà Thế T kết hôn trên cơ sở tự nguyện, có đăng ký kết hôn tại Uỷ ban nhân dân xã N (nay là xã H), huyện N, tỉnh Hải Dương vào ngày 27/9/2012. Sau khi kết hôn vợ chồng chung sống với nhau được một thời gian ngắn thì phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân là do anh T chơi bời, không có trách nhiệm với gia đình, vợ chồng thường xuyên xảy ra mâu thuẫn và đã sống ly thân từ lâu, không ai quan tâm đến ai. Nay chị xác định tình cảm vợ chồng không còn, đề nghị Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn anh Hà Thế T.

Về con chung: Vợ chồng có 01 con chung là Hà Thế D, sinh ngày 05/6/2013, hiện con đang ở với ông Nguyễn Khắc Tr. Khi ly hôn, chị đề nghị được nuôi dưỡng con chung cho đến khi con thành niên (tròn 18 tuổi) và tự nguyện không yêu cầu anh T phải cấp dưỡng tiền nuôi con chung. Trong thời gian chị vắng mặt tại Việt Nam chị ủy quyền cho ông Tr chăm sóc, nuôi dưỡng cháu D cho đến khi chị về nước.

Về tài sản chung: Chị xác định vợ chồng không có tài sản chung nên chị không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Hiện chị S đang lao động tại Đài Loan (Trung Quốc) nên chị ủy quyền cho ông Nguyễn Khắc Tr thay chị giao, nhận các văn bản, tài liệu tại Tòa án, đồng thời đề nghị Tòa án giải quyết vắng mặt.

- Tại các bản khai, bị đơn anh Hà Thế T trình bày: Anh và chị Nguyễn Thị S có quan hệ hôn nhân như chị S trình bày là đúng. Sau khi kết hôn vợ chồng chung sống hạnh phúc được khoảng 2 năm thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân là do bất đồng quan điểm sống, vợ chồng không có tiếng nói chung và đã sống ly thân từ năm 2015 cho đến nay, không ai quan tâm đến ai. Nay, chị S có đơn xin ly hôn, anh cũng xác định tình cảm vợ chồng không còn, mâu thuẫn không thể hàn gắn được nên anh nhất trí ly hôn và đề nghị Tòa án giải quyết vắng mặt.

Về con chung; Vợ chồng có một con chung như chị S trình bày là đúng, khi ly hôn anh nhất trí để chị S nuôi dưỡng con chung cho đến khi con thành niên và nhất trí giao con cho ông Nguyễn Khắc Tr nuôi dưỡng trong thời gian chị S vắng mặt tại Việt Nam.

Về tài sản chung, nợ chung: Anh xác định vợ chồng không có nên anh không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Người được chị S ủy quyền về việc nuôi dưỡng con chung và giao, nhận văn bản tố tụng tại Tòa án - ông Nguyễn Khắc Tr trình bày: Ông đồng ý chăm sóc, nuôi dưỡng cháu Hà Thế D cho đến khi chị S về nước, ông không yêu cầu anh, chị phải cấp dưỡng tiền nuôi cháu D, đồng thời ông nhất trí nhận ủy quyền của chị S về việc giao nhận văn bản tố tụng tại Tòa án, sau khi nhận được các văn bản tố tụng của Tòa án, ông đã thông báo cho chị S biết, chị S vẫn giữ nguyên quan điểm như đã trình bày.

Con chung của chị S, anh T là cháu Hà Thế D có nguyện vọng được ở với chị S và ông Tr.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Hải Dương phát biểu quan điểm:

Về việc tuân theo pháp luật: Thẩm phán, Thư ký, Hội đồng xét xử và các đương sự đã thực hiện đúng các quy định của Bộ luật tố tụng dân sự.

Về việc giải quyết vụ án: Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng Điều 56, 81, 82, 83 Luật Hôn nhân và gia đình; Điều 147 Bộ luật Tố tụng dân sự; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu án phí, lệ phí Tòa án. Về quan hệ hôn nhân: Xử cho chị Nguyễn Thị S ly hôn anh Hà Thế T. Về con chung: Giao con chung Hà Thế D cho chị S nuôi dưỡng, anh T không phải cấp dưỡng tiền nuôi con chung. Tạm giao cháu D cho ông Nguyễn Khắc Tr nuôi dưỡng trong thời gian chị S vắng mặt tại Việt Nam. Về án phí: Chị S phải chịu án phí Hôn nhân và gia đình sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên toà và xem xét ý kiến của các đương sự, quan điểm của đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Hải Dương, Hội đồng xét xử nhận định:

[1]. Về tố tụng: Nguyên đơn chị Nguyễn Thị S có địa chỉ trước khi xuất cảnh ở thôn H, xã B, huyện T, tỉnh Hải Dương, hiện chị đang sinh sống và làm việc tại Đài Loan (Trung Quốc). Bị đơn anh Hà Thế T đang sinh sống tại thôn L, xã H, huyện N, tỉnh Hải Dương. Do vậy, Tòa án nhân dân tỉnh Hải Dương thụ lý, giải quyết vụ án là đúng thẩm quyền. Mặc dù, chị S không về Việt Nam tham gia tố tụng nhưng chị đã gửi các tài liệu gồm: Đơn xin ly hôn, bản tự khai, đơn xin giải quyết vắng mặt và giấy ủy quyền về Tòa án nhân dân tỉnh Hải Dương. Tòa án đã trưng cầu giám định dấu vân tay của chị S đối với các tài liệu này. Kết quả giám định cho thấy, dấu vân tay của chị S trong các tài liệu trên so với dấu vân tay in trong giấy chứng minh nhân dân của chị S là của cùng một người. Do vậy, có đủ cơ sở khẳng định nội dung trong các văn bản mà chị S gửi về đúng là ý chí, nguyện vọng của chị. Chị S, anh T và ông Tr đều đề nghị Tòa án giải quyết vắng mặt. Căn cứ vào khoản 1 Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt các đương sự theo quy định của pháp luật.

[2]. Về nội dung:

[2.1] Về quan hệ hôn nhân: Chị Nguyễn Thị S và anh Hà Thế T kết hôn trên cơ sở tự nguyện, có đăng ký kết hôn tại Uỷ ban nhân dân xã N (nay là xã T), huyện N, tỉnh Hải Dương vào ngày 27/9/2012 nên là hôn nhân hợp pháp. Sau khi kết hôn, vợ chồng chung sống với nhau được một thời gian ngắn thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân là do quan điểm sống bất đồng, anh, chị đã sống ly thân từ năm 2015 cho đến nay. Năm 2019, chị S đi xuất khẩu lao động tại Đài Loan (Trung Quốc), vợ chồng không liên lạc và không quan tâm đến nhau. Nay, chị S và anh T đều xác định tình cảm vợ chồng không còn, chị S có đơn xin ly hôn, anh T nhất trí. Xét thấy, mâu thuẫn vợ chồng giữa chị S và anh T đã trầm trọng, mục đích hôn nhân không đạt được. Do vậy cần chấp nhận yêu cầu khởi kiện, xử cho chị S được ly hôn anh T .

[2.2] Về quan hệ con chung: Chị Nguyễn Thị S và anh Hà Thế T có một con chung là Hà Thế D, sinh ngày 05/6/2013, hiện con đang ở với ông Nguyễn Khắc Tr. Chị S đề nghị được nuôi dưỡng con chung cho đến khi các con thành niên (tròn 18 tuổi) và tự nguyện không yêu cầu anh T phải cấp dưỡng tiền nuôi con chung, đồng thời chị ủy quyền cho ông Trần chăm sóc, nuôi dưỡng cháu Dũng cho đến khi chị về nước. Anh T nhất trí giao con chung cho chị S nuôi dưỡng và nhất trí giao cháu D cho ông Tr chăm sóc trong thời gian chị S không có mặt tại Việt Nam. Cháu Hà Thế D cũng có nguyện vọng được ở với chị S và ông Tr. Do vậy, Hội đồng xét xử chấp nhận sự thỏa thuận của các đương sự giao con chung Hà Thế D cho chị S nuôi dưỡng là phù hợp với thực tế, phù hợp với các Điều 81, 82 và 83 Luật Hôn nhân và gia đình. Chấp nhận sự tự nguyện của chị S tự nguyện không yêu cầu anh T phải cấp dưỡng tiền nuôi con chung. Tạm giao cháu D cho ông Nguyễn Khắc Tr nuôi dưỡng trong thời gian chị S không có mặt tại Việt Nam.

[2.3] Về tài sản chung, nợ chung: Không có nên chị S, anh T không yêu cầu xem xét, giải quyết.

[3]. Về án phí: Chị Nguyễn Thị S phải chịu án phí Hôn nhân gia đình sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì những lẽ trên:

QUYẾT ĐỊNH

Áp dụng Điều 51, 56, 81, 82, 83 Luật Hôn nhân và gia đình; Điều 147 Bộ luật Tố tụng dân sự; điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án. Xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Nguyễn Thị S.

1. Về quan hệ hôn nhân: Xử cho chị Nguyễn Thị S ly hôn anh Hà Thế T.

2. Về quan hệ con chung: Giao cho chị Nguyễn Thị S được nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục con chung là Hà Thế D, sinh ngày 05/6/2013 cho đến khi con thành niên (đủ 18 tuổi). Chấp nhận sự tự nguyện của chị S không yêu cầu anh T phải cấp dưỡng tiền nuôi con chung. Trong thời gian chị S không ở Việt Nam, tạm giao cháu D cho ông Nguyễn Khắc Tr chăm sóc, nuôi dưỡng.

Anh Hà Thế T được quyền thăm nom, chăm sóc con chung, không ai được cản trở.

3. Về án phí: Chị Nguyễn Thị S phải chịu 300.000đ (ba trăm nghìn đồng) án phí Hôn nhân gia đình sơ thẩm nhưng được đối trừ 300.000đ (ba trăm nghìn đồng) tiền tạm ứng án phí chị S đã nộp, theo biên lai thu số AA/2021/0000370 ngày 17 tháng 5 năm 2022 của Cục thi hành án dân sự tỉnh Hải Dương (do ông Nguyễn Khắc Tr nộp thay). Chị S đã nộp đủ án phí Hôn nhân gia đình sơ thẩm.

4. Về quyền kháng cáo: Chị Nguyễn Thị S được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 30 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.

Anh Hà Thế T và ông Nguyễn Khắc Tr được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

67
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con số 103/2022/HNGĐ-ST

Số hiệu:103/2022/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Hải Dương
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 24/06/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;