Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con số 102/2022/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN XUÂN LỘC, TỈNH ĐỒNG NAI

BẢN ÁN 102/2022/HNGĐ-ST NGÀY 13/07/2022 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON

Ngày 13/7/2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Xuân Lộc xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 93/2022/TLST-HNGĐ ngày 02/3/2022 về ly hôn, tranh chấp nuôi con, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 87/2022/QĐXXST- HNGĐ ngày 13/6/2022, Quyết định hoãn phiên tòa số: 36/2022/QĐST -HNGĐ ngày 27/6/2022 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Chị Trần Thị Xuân V, sinh năm: 1992 (vắng mặt) Địa chỉ: Khu 4, thị trấn Gia Ray, huyện Xuân Lộc, tỉnh Đồng Nai

- Bị đơn: Anh Nguyễn Văn D, sinh năm 1990 (vắng mặt).

Địa chỉ: ấp T, xã Xuân Hiệp, huyện Xuân Lộc, tỉnh Đồng Nai

NỘI DUNG VỤ ÁN

* Theo đơn khởi kiện ngày 21/02/2022, trong quá trình làm việc và tại phiên tòa, nguyên đơn chị Trần Thị Xuân V trình bày: Vào năm 2020, chị và anh Nguyễn Văn D tự nguyện chung sống với nhau và đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã X, huyện Y, tỉnh Đồng Nai. Sau khi kết hôn, anh chị sống hạnh phúc được hai năm thì phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân do hai vợ chồng bất đồng quan điểm sống, thường xuyên cãi nhau. Anh D thường xuyên đánh đập chị nên chị đã về nhà cha mẹ đẻ sống từ tháng 02/2020 cho đến nay. Nhận thấy không còn tình cảm với anh D nên chị yêu cầu được ly hôn.

Về con chung: Anh chị có 01 con chung tên là Nguyễn Trần Đăng K, sinh ngày 22/01/2021. Hiện nay cháu đang ở với anh D. Khi ly hôn chị đồng ý giao cháu K cho anh D nuôi dưỡng và chị không cấp dưỡng nuôi con chung cho anh D.

Về tài sản chung: Không có.

Về nợ chung: Không có.

* Trong quá trình giải quyết, bị đơn anh Nguyễn Văn D đã được triệu tập hợp lệ nhiều lần nhưng vắng mặt không có lý do nên không có lời trình bày.

* Ý kiến của đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Xuân Lộc:

Từ khi thụ lý vụ án đến nay, Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa tuân theo đúng quy định pháp luật về tố tụng.

Về nội dung vụ án: Đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu ly hôn của chị V, chị V được ly hôn với anh Nguyễn Văn D; Về con chung: Giao cháu Nguyễn Trần Đăng K cho anh D trực tiếp nuôi dưỡng; tạm miễn việc nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con cho chị V; tài sản chung và nợ chung: Không giải quyết.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án, căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về tư cách tham gia tố tụng: Chị Trần Thị Xuân V có đơn khởi kiện ly hôn với anh Nguyễn Văn D, do đó xác định chị V là nguyên đơn, anh D là bị đơn theo quy định tại khoản 2, khoản 3 Điều 68 Bộ luật Tố tụng Dân sự.

[2] Về thủ tục tố tụng: Chị Trần Thị Xuân V có đơn đề nghị xét xử vắng mặt, anh Nguyễn Văn D đã được triệu tập tham gia phiên tòa đến lần thứ hai mà vẫn vắng mặt không có lý do. Do đó, tiến hành xét xử vắng mặt chị V, anh D là phù hợp với quy định tại điểm b khoản 2 Điều 227, khoản 1 Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự.

[3] Về quan hệ hôn nhân: Chị Trần Thị Xuân V và anh Nguyễn Văn D tự nguyện đăng ký kết hôn với nhau năm 2020 tại Ủy ban nhân dân xã X, do đó quan hệ hôn nhân của anh chị là hợp pháp được pháp luật công nhận và bảo vệ.

[4] Theo khoản 1 Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 quy định:

“Khi vợ hoặc chồng yêu cầu ly hôn mà hòa giải tại Tòa án không thành thì Tòa án giải quyết cho ly hôn nếu có căn cứ về việc vợ, chồng có hành vi bạo lực gia đình hoặc vi phạm nghiêm trọng quyền, nghĩa vụ của vợ, chồng làm cho hôn nhân lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được”.

Xét yêu cầu của nguyên đơn nhận thấy: Chị V cho rằng, nguyên nhân mâu thuẫn của vợ chồng là do tính tình không hợp, bất đồng quan điểm sống nên vợ chồng hay cãi nhau, anh D thường xuyên đánh đập chị. Anh D đã được triệu tập hợp lệ nhiều lần để làm việc, anh D biết việc ly hôn nhưng vẫn vắng mặt không lý do, cho thấy anh D không có thiện chí trong việc hòa giải đoàn tụ vợ chồng. Hơn nữa, theo kết quả xác minh tình trạng hôn nhân của anh chị tại địa phương cho thấy anh chị không còn sống chung với nhau. Theo lời khai của bà Nguyễn Thị H (cô ruột anh D) thì thời gian sống chung với gia đình, anh D và chị V mâu thuẫn như thế nào thì bà không biết, chỉ biết khi hai vợ chồng cãi nhau thì chị V đã bỏ về nhà cha mẹ ruột sống từ tháng 01/2022 cho đến nay, không quan tâm gì đến chồng con . Gia đình hai bên đã hòa giải nhưng không có kết quả. Như vậy, chứng tỏ mâu thuẫn giữa anh chị đã trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được, nên chấp nhận yêu cầu ly hôn của chị V là phù hợp với quy định tại Điều 56 của Luật Hôn nhân và gia đình.

[5] Về con chung: Chị V đồng ý giao con chung cho anh D tiếp tục nuôi dưỡng, chị V không cấp dưỡng nuôi con. Từ khi chị V, anh D không sống chung với nhau cho đến nay thì anh D là người trực tiếp nuôi dưỡng con chung, việc nuôi con chung của anh D là đảm bảo. Vì vậy, cần thiết giao con chung cho anh D trực tiếp nuôi dưỡng để đảm bảo quyền lợi về mọi mặt của cháu, là phù hợp với quy định tại Điều 81 của Luật hôn nhân và gia đình.

[6] Chị V không cấp dưỡng nuôi con chung cho anh Nguyễn Văn D. Anh D vắng mặt nên không có lời trình bày về yêu cầu cấp dưỡng nuôi con, nên không xem xét giải quyết.

[7] Về tài sản chung: Chị V trình bày không có, anh D không có lời khai, nên không xem xét giải quyết.

[8] Về nợ chung: Chị V trình bày không có, anh D không có lời khai, nên không giải quyết.

[9] Về án phí: Chị Trần Thị Xuân V phải nộp 300.000 đồng tiền án phí dân sự sơ thẩm.

[10] Quan điểm của đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Xuân Lộc phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử, nên chấp nhận.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Áp dụng các Điều 28, 35, 39, 227, 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự; các Điều 8, 9, 51, 56, 58, 81, 82, 83, 84 của Luật Hôn và nhân gia đình năm 2014; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội về Án phí và Lệ phí Tòa án.

Tuyên xử:

1. Về quan hệ hôn nhân: Chị Trần Thị Xuân V ly hôn anh Nguyễn Văn D.

2. Về con chung: Giao con chung là cháu Nguyễn Trần Đăng K, sinh ngày 22/01/2021 cho anh Nguyễn Văn D trực tiếp nuôi dưỡng cho đến khi cháu Khoa đủ 18 tuổi và có khả năng lao động.

Về cấp dưỡng nuôi con: Anh D vắng mặt, không có lời trình bày về yêu cầu cấp dưỡng nuôi con nên không xem xét giải quyết.

Chị V được quyền đi lại thăm nom con chung, không ai được cản trở. Vì quyền lợi của con chung, khi cần thiết các bên có quyền yêu cầu Tòa án thay đổi người trực tiếp nuôi con và mức cấp dưỡng nuôi con.

3. Về tài sản chung và nợ chung: Không giải quyết.

4. Về án phí: Chị Trần Thị Xuân V phải nộp 300.000 đồng (Ba trăm ngàn đồng) tiền án phí dân sự sơ thẩm. Số tiền 300.000 đồng tạm ứng án phí theo biên lai thu số 006172 ngày 21/02/2022 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Xuân Lộc được chuyển thành án phí.

Chị Trần Thị Xuân V và anh Nguyễn Văn D được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc niêm yết bản án. 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

71
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con số 102/2022/HNGĐ-ST

Số hiệu:102/2022/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Xuân Lộc - Đồng Nai
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 13/07/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;