Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con số 10/2022/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ SẦM SƠN, TỈNH THANH HÓA

BẢN ÁN 10/2022/HNGĐ-ST NGÀY 01/04/2022 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON

Ngày 01 tháng 4 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân Thành phố Sầm Sơn, xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 163/2021/TLST- HNGĐ ngày 30 tháng 12 năm 2021 về việc: “ Ly hôn, tranh chấp về nuôi con” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 04/2022/QĐXXST-HNGĐ ngày 11 tháng 3 năm 2022 và quyết định hoãn phiên tòa số: 07/QĐST-HNGĐ ngày 23 tháng 3 năm 2022, giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Chị Trần Thị T - sinh năm 1993;

Địa chỉ: Thôn P, xã Q, thành phố S, tỉnh Thanh Hóa;(có mặt)

Bị đơn: Anh Lê Doãn S - sinh năm 1992;

Địa chỉ: Thôn 6, xã Q, thành phố S, tỉnh Thanh Hóa;(vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong đơn khởi kiện và trong quá trình giải quyết vụ án cũng như tại phiên tòa sơ thẩm nguyên đơn chị Trần Thị T trình bày:

Về quan hệ hôn nhân: Chị T và anh S tự nguyện kết hôn với nhau, được hai bên gia đình đồng ý tổ chức cưới và có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã Q, huyện Q (Nay là thành phố Sầm Sơn), tỉnh Thanh Hóa vào ngày 26/11/2013. Sau khi kết hôn cuộc sống vợ chồng vui vẻ hạnh phúc được một thời gian thì bắt đầu phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân là vợ chồng tính tình không hợp, bất đồng quan điểm sống, không ai quan tâm đến ai, không có tiếng nói chung dẫn đến vợ chồng thường xuyên cải vả. Vợ chồng đã cho nhau nhiều cơ hội nhưng vẫn không thể hàn gắn được. Mâu thuẫn của vợ chồng đã được hai bên gia đình dàn xếp nhưng không thành. Nay xét thấy tình cảm vợ chồng không còn, mục đích hôn nhân không đạt được nên nguyện vọng của chị Tđược giải quyết ly hôn với anh Sơn.

Về con chung: Chị Trần Thị T và anh Lê Doãn S có 03 con chung, là cháu Lê Quốc Đ - sinh ngày 10/02/2014; cháu Lê Quốc Phước A – sinh ngày 21/10/2018 và cháu Lê Minh K – sinh ngày 27/6/2020. Nay chị Tđề nghị giải quyết cho chị được trực tiếp nuôi dưỡng cháu Minh Khang; anh S trực tiếp nuôi dưỡng cháu Quốc Đ và cháu Phước An; các bên không phải cấp dưỡng tiền nuôi con chung cho nhau.

Về tài sản chung, công nợ chung: Chị Trần Thị T không yêu cầu xem xét, giải quyết.

Đối với bị đơn anh Lê Doãn S: Từ khi Tòa án thụ lý vụ án đến khi xét xử đã tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng của Tòa án cho anh S nhưng không đến Tòa án làm việc, không có ý kiến phản hồi đối với yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn Tại phiên tòa lần 02 có mặt chị Trang, vắng mặt anh S, chị Tvẫn giữ nguyên quan điểm như đã trình bày.

Kết thúc tranh luận, Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân thành phố Sầm S phát biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật tố tụng của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký Tòa án và những người tham gia tố tụng, kể từ khi thụ lý vụ án cho đến khi Hội đồng xét xử vào nghị án.

Về hướng giải quyết vụ án: Căn cứ các Điều 51, Điều 56, Điều 81, Điều 82, Điều 83 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014, Đề nghị: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn đối với bị đơn, xử cho chị Tđược ly hôn với anh S.

Về yêu cầu nuôi con chung: Đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ vào nguyện vọng của nguyên đơn và độ tuổi, tâm lý lứa tuổi để giao con theo quy định, cần giao cháu Lê Minh Khang cho chị Ttrực tiếp nuôi dưỡng; giao cháu Lê Quốc Đ và cháu Lê Quốc Phước An cho anh S trực tiếp nuôi dưỡng là phù hợp.

Về tài sản, công nợ chung: Chị T không yêu cầu giải quyết nên miễn xét.

Về án phí: Buộc nguyên đơn chị Trần Thị T phải nộp án phí ly hôn sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Căn cứ các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án được xem xét tại phiên tòa. Trên cơ sở quan điểm của đại diện Viện kiểm sát về việc chấp hành pháp luật tố tụng và đề nghị hướng giải quyết vụ án. Hội đồng xét xử Tòa án nhân dân thành phố Sầm Sơn có đủ cơ sở nhận định.

[1]. Về thủ tục tố tụng: Yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn đối với bị đơn là tranh chấp về hôn nhân và gia đình, theo quy định tại khoản 1 Điều 28 của Bộ luật Tố tụng dân sự về “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con”. Do bị đơn có nơi cư trú tại thành phố Sầm Sơn, nên vụ án thuộc thẩm quyền của Tòa án nhân dân thành phố Sầm Sơn là đúng quy định tại các Điều 35 và Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự.

Tại phiên tòa, bị đơn anh Lê Doãn S đã được triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai nhưng anh S vẫn vắng mặt không vì lý do bất khả kháng và trở ngại khách quan, căn cứ điểm b, khoản 2, Điều 227 Bộ luật tố tụng dân sự, Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt anh S.

[2] Xét về quan hệ hôn nhân: Chị T và anh S đã thực hiện lễ cưới theo phong tục tập quán tại địa phương, việc kết hôn được cơ quan nhà nước có thẩm quyền cấp giấy chứng nhận đăng ký kết hôn. Tại thời điểm đăng ký kết hôn, cả chị và anh không vi phạm các quy định về độ tuổi và các điều kiện cấm kết hôn theo Luật hôn nhân và gia đình. Như vậy, hôn nhân của anh, chị được công nhận là hợp pháp.

[3]. Xét yêu cầu xin ly hôn của nguyên đơn đối với bị đơn: Trong thời kỳ hôn nhân, chị Tvà anh S sống không có hạnh phúc, thường xuyên phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân là do anh chị tính tình không hợp nhau, bất đồng về quan điểm sống, không có tiếng nói chung, dẫn đến anh chị thường xuyên cải vả, cuộc sống hôn nhân không có hạnh phúc. Quá trình giải quyết vụ án, mặc dù đã được Tòa án triệu tập nhiều lần để giải quyết nhưng anh S vẫn vắng mặt không lý do, điều đó thể hiện anh S không mong muốn vợ chồng hòa giải những bất đồng để quay về đoàn tụ, không tha thiết với cuộc sống hôn nhân. Như vậy, mâu thuẫn cuộc sống hôn nhân của anh chị đã đến mức trầm trọng, mục đích hôn nhân không đạt được. Nay nguyện vọng xin ly hôn của chị Tlà có căn cứ chấp nhận, vì thực trạng anh, chị không còn sống với nhau. Hội đồng xét xử chấp nhận với ý kiến của Kiểm sát viên, cho chị Trần Thị T được ly hôn anh Lê Doãn S là phù hợp với Điều 51, 56 Luật hôn nhân gia đình năm 2014.

[4]. Về con chung: Chị Trần Thị T và anh Lê Doãn S có 03 con chung, là cháu Lê Quốc Đạt - sinh ngày 10/02/2014; cháu Lê Quốc Phước A – sinh ngày 21/10/2018 và cháu Lê Minh K – sinh ngày 27/6/2020. Nay chị T đề nghị giải quyết cho chị được trực tiếp nuôi dưỡng cháu Minh K, anh S trực tiếp nuôi dưỡng cháu Phước A và cháu Quốc Đ, các bên không phải cấp dưỡng tiền nuôi con chung cho nhau.

Xét thấy việc nuôi dạy con cái là quyền và nghĩa vụ của cha mẹ, ai cũng có quyền này. Cháu Minh Khang hiện tại chưa đủ 36 tháng tuổi, ngoài ra khi giải quyết vụ án anh S không có ý kiến phản hồi đối với yêu cầu của chị Trang, nên cần giao cháu Minh Khang cho chị Ttrực tiếp nuôi dưỡng, giao cháu Quốc Đ và cháu Phước An cho anh S trực tiếp nuôi dưỡng theo nguyện vọng của chị Tlà phù hợp với Điều 58 của Luật hôn nhân và gia đình năm 2014. Như vậy, về nguyện vọng nuôi con của chị Tlà phù hợp và có căn cứ.

Đối với việc cấp dưỡng nuôi con: Do chị T không yêu cầu và đây là ý chí tự nguyện của chị Trang, nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[5].Về tài sản, công nợ chung: Chị Tkhông yêu cầu Tòa án xem xét, giải quyết.

[6]. Về án phí: Án phí Hôn nhân gia đình sơ thẩm chị Trần Thị T phải chịu, theo quy định của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án. (ban hành kèm theo danh mục án phí, lệ phí Tòa án).

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1 Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39; khoản 4 Điều 147; điểm b khoản 2 Điều 227; Điều 271 và Điều 273 của Bộ luật tố tụng dân sự.

Căn cứ vào Điều 51, Điều 56; Điều 58; Điều 81; Điều 82; Điều 83 của Luật hôn nhân gia đình năm 2014.

Căn cứ vào điểm a khoản 1 Điều 24, điểm a khoản 5, Điều 27 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Chấp nhận đơn khởi kiện của chị Trần Thị T về việc “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con” đối với anh Lê Doãn S.

Xử:

Về hôn nhân: Chị Trần Thị T được ly hôn với anh Lê Doãn S;

Về con chung: Giao cháu Lê Minh K cho chị Ttrực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục cho đến khi cháu thành niên; giao cháu Lê Quốc Đ và cháu Lê Quốc Phước A cho anh S trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục cho đến khi các cháu thành niên. Chị T và anh S không phải cấp dưỡng tiền nuôi con chung cho nhau. Chị T và anh S có quyền qua lại, thăm nom, chăm sóc, giáo dục con chung không ai được cản trở.

Về án phí: Chị Trần Thị T phải chịu 300.000đ (ba trăm nghìn đồng) tiền án phí Hôn nhân gia đình sơ thẩm, nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí chị Tđã nộp theo biên lai số: AA/2021/0013177 ngày 30/12/2021 tại Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Sầm Sơn, tỉnh Thanh Hóa. Chị Tđã nộp đủ án phí.

Án xử công khai có mặt nguyên đơn, vắng mặt bị đơn. Chị Trần Thị T được quyền kháng cáo bản trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, anh Lê Doãn S được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc kể từ ngày bản án được niêm yết.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án, người phải thi hành án có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc cưỡng chế thi hành án theo quy định tại Điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự. thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

116
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con số 10/2022/HNGĐ-ST

Số hiệu:10/2022/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Sầm Sơn - Thanh Hoá
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 01/04/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;