Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con số 10/2022/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN THOẠI SƠN, TỈNH AN GIANG

BẢN ÁN 10/2022/HNGĐ-ST NGÀY18/02/2022 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON

Trong ngày 18 tháng 02 năm 2022, tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Thoại Sơn, tỉnh An Giang xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 299/ 2021/ TLST- HNGĐ ngày 23/11/2021 về việc: “Xin ly hôn, tranh chấp về nuôi con” theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 07/2022/QĐXXST-HNGĐ ngày 07/01/2022 và quyết định hoãn phiên tòa số: 12/2022/QĐST-HNGĐ ngày 24/01/2022 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Chị Nguyễn Thị M, sinh năm 1987 (Vắng mặt – có đơn xin xét xử vắng mặt) Địa chỉ: Ấp Hòa P, xã Định T, huyện Thoại Sơn, huyện Thoại Sơn, tỉnh An Giang. Số điện thoại: 0339.998.349

2. Bị đơn: Anh Nguyễn Văn G, sinh năm 1982 (Vắng mặt) Địa chỉ: Ấp Hòa P, xã Định T, huyện Thoại Sơn, tỉnh An Giang. Số điện thoại: 0345.445.509

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện và các lời khai trong quá trình giải quyết vụ án nguyên đơn chị Nguyễn Thị M trình bày: Chị Nguyễn Thị M với anh Nguyễn Văn G chung sống với nhau từ năm 2001, có tổ chức lễ cưới và có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân (sau đây gọi tắt là UBND) xã Định T, huyện Thoại Sơn, tỉnh An Giang vào ngày 10/3/2016. Thời gian đầu, vợ chồng chung sống hạnh Pc và có 02 con chung tên Nguyễn Thị Bé Ng, sinh ngày 01/01/2002 và Nguyễn Văn Th, sinh ngày 26/11/2012. Nhưng đến năm 2002, vợ chồng phát sinh mâu thuẫn nguyên nhân do anh G thường xuyên uống rượu và có những hành vi bạo lực gia đình đối với chị M, cuộc sống hôn nhân không hạnh Pc. Tháng 9/2021, chị M về nhà cha mẹ ruột sống, vợ chồng đã ly thân từ đó cho đến nay. Nhận thấy, cuộc sống hôn nhân không thể hàn gắn và kéo dài nên chị M yêu cầu Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn với anh Nguyễn Văn G. Về quan hệ con chung: Sau khi ly hôn, chị M yêu cầu được nuôi con chung tên Nguyễn Văn Th, sinh ngày 26/11/2012, không yêu cầu anh G cấp dưỡng nuôi con, đối với cháu Nguyễn Thị Bé Ng đã trưởng thành, tự lao động được nên không yêu cầu Tòa án giải quyết. Về tài sản chung: Tự thỏa thuận, không yêu cầu Tòa án giải quyết; Về nợ chung: Không có.

Nguyện vọng của con chung: Tại biên bản lấy lời khai ngày 07/01/2022 cháu Nguyễn Văn Th có nguyện vọng được sống với mẹ.

Đối với bị đơn anh Nguyễn Văn G: Sau khi thụ lý vụ án, Tòa án đã triệu tập hợp lệ anh Nguyễn Văn G nhưng anh G đã vắng mặt không lý do nên không có lời khai của anh G.

Kết quả xác minh tình trạng hôn nhân của chị M, anh G tại Ủy ban nhân dân xã Định T, huyện Thoại Sơn, tỉnh An Giang vào ngày 08/12/2021 thể hiện: Chị M và anh G có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã Định T. Trong quá trình chung sống vợ chồng có 02 con chung tên Nguyễn Thị Bé Ng, sinh ngày 01/01/2002 và Nguyễn Văn Th, sinh ngày 26/11/2012. Cháu Ng đã trưởng thành, cháu Th đang học tiểu học và đang sống với mẹ tại ấp Hòa P, xã Định T, huyện Thoại Sơn, tỉnh An Giang. Đối với chuyện mâu thuẫn vợ chồng của chị M, anh G thì chính quyền địa phương không rõ.

Tại phiên tòa: Chị Nguyễn Thị M vắng mặt – có đơn xin xét xử vắng mặt; bị đơn anh Nguyễn Văn G vắng mặt không có lý do.

Đại diện Viện kiểm sát Kiểm sát viên tham gia phiên tòa phát biểu ý kiến:

- Về tuân theo pháp luật của những người tiến hành tố tụng và những người tham gia tố tụng: Về cơ bản vụ án đã được tiến hành đúng theo trình tự pháp luật quy định, đã xác minh tại địa phương về tình trạng hô n nhân, có đủ cơ sở đưa vụ án ra xét xử theo quy định của pháp luật.

- Về giải quyết vụ án: Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng Điều 8, Điều 9, Điều 56, Điều 81, Điều 82, Điều 83 và Điều 84 Luật Hôn nhân gia đình năm 2014; Nghị quyết 326/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội về án phí, lệ phí Tòa án, tuyên xử: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn. Về quan hệ hôn nhân: Chị M được ly hôn với anh G. Về con chung: Giao cháu Nguyễn Văn Th cho chị M được tiếp tục chăm sóc, nuôi dưỡng, anh G không phải cấp dưỡng nuôi con do chị M không yêu cầu. Về tài sản chung, nợ chung: Không xem xét. Về án phí: Chị M yêu cầu ly hôn nên phải nộp 300.000 đồng án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên toà, Hội đồng xét xử (sau đây gọi tắt là HĐXX) nhận định:

[1] Về tố tụng: Đây là vụ án tranh chấp hôn nhân và gia đình về việc ly hôn, tranh chấp về nuôi con; Bị đơn anh Nguyễn Văn G cư trú tại ấp Hòa P, xã Định T, huyện Thoại Sơn, tỉnh An Giang. Theo quy định tại Điều 28, Điều 35, khoản 1 Điều 39 Bộ luật Tố tụng dân sự thì vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Thoại Sơn. Tại phiên tòa lần thứ nhất anh Nguyễn Văn G vắng mặt nên HĐXX đã hoãn phiên tòa và tiếp tục tống đạt Quyết định hoãn phiên tòa cho anh G. Tuy nhiên, tại phiên tòa hôm nay anh G vẫn vắng mặt không có lý do là từ bỏ quyền và không thực hiện nghĩa vụ theo quy định tại Điều 70 và Điều 72 Bộ luật tố tụng dân sự; Chị Nguyễn Thị M vắng mặt và có đơn xin xét xử vắng mặt. Do vậy, Tòa án căn cứ khoản 2 Điều 227 và khỏan 1 Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự. Tòa án xét xử vắng mặt nguyên đơn và bị đơn.

[2] Về nội dung:

[2.1] Về quan hệ hôn nhân: Chị Nguyễn Thị M chung sống với anh Nguyễn Văn G có đăng ký kết hôn tại UBND xã Định T, huyện Thoại Sơn, tỉnh An Giang. Do vậy, căn cứ vào Điều 8 và Điều 9 của Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 thì đây là hôn nhân hợp pháp nên phát sinh quyền và nghĩa vụ của vợ chồng. Sau khi kết hôn, chị M và anh G chỉ có một khoảng thời gian ngắn chung sống hạnh Pc, đến năm 2002 thì vợ chồng phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân do anh G thường xuyên uống rượu và có những hành vi bạo lực gia đình đối với chị M, cuộc sống hôn nhân không hạnh Pc. Mâu thuẫn kéo dài mặc dù đã được gia đình hai bên hòa giải và chị M đã cho anh G nhiều cơ hội sửa đổi nhưng vẫn không đạt kết quả, anh chị quyết định sống ly thân từ tháng 9/2021 đến nay, trong thời gian ly thân vợ chồng không còn quan tâm nhau. Lời khai của chị M phù hợp với lời khai của con chung Nguyễn Văn Th về nguyên nhân phát sinh mâu thuẫn và cũng cơ bản phù hợp với kết quả thu thập chứng cứ về tình trạng hôn nhân của anh chị tại nơi cư trú của vợ chồng nên chị M đề nghị Tòa án giải quyết cho ly hôn là có cơ sở.

Căn cứ vào quy định tại Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014, HĐXX xét thấy tình trạng hôn nhân giữa chị M và anh G đã mâu thuẫn trầm trọng, mục đích hôn nhân không đạt được nên chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của chị M đối với anh G.

[2.2] Về con chung: Qua chứng cứ chị M cung cấp cũng như kết quả xác minh tình trạng hôn nhân tại UBND xã Định T thì chị Nguyễn Thị M và anh Nguyễn Văn G có 02 con chung tên Nguyễn Thị Bé Ng, sinh ngày 01/01/2002 và Nguyễn Văn Th, sinh ngày 26/11/2012.

Hiện nay chị Nguyễn Thị Bé Ng đã đủ tuổi thành niên, chị Ngọc có quyền lựa chọn cuộc sống riêng của mình nên Hội đồng xét xử không đề cập giải quyết. Đối với cháu Nguyễn Văn Th, sinh ngày 26/11/2012, quá trình giải quyết vụ án cháu có nguyện vọng sống với mẹ, bản thân chị M cũng có nguyện vọng được tiếp tục nuôi dưỡng cháu Th. Do vậy, HĐXX áp dụng các Điều 81, Điều 82, Điều 83 và Điều 84 Luật hôn nhân gia đình, giao cháu Nguyễn Văn Th, sinh ngày 26/11/2012 cho chị Nguyễn Thị M được trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục cho đến khi cháu Th thành niên (đủ 18 tuổi), tự lao động được là phù hợp và đảm bảo được các điều kiện tốt nhất cho sự phát triển về thể chất, tinh thần, việc học tập, môi trường sống của cháu Th; Anh G phải tạo điều kiện cho chị M được quyền đến thăm nom, chăm sóc cháu Th, không ai được cản trở; Khi cần thiết chị M có quyền yêu cầu thay đổi người nuôi con theo quy định pháp luật.

[2.3] Về cấp dưỡng nuôi con: Chị M không yêu cầu nên HĐXX không xem xét.

[2.4] Về tài sản chung và nợ chung:

[2.4.1] Về tài sản chung: Chị M trình bày tự thỏa thuận, không yêu cầu nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[2.4.2] Về nợ chung: Chị M trình bày không có nên HĐXX không xem xét.

[3] Về án phí dân sự sơ thẩm: Chị M là nguyên đơn nên phải chịu án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm theo quy định tại khoản 4 Điều 147 Bộ lu ật tố tụng dân sự năm 2015 và điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội.

[4] Quan điểm của vị đại diện Viện kiểm sát đề nghị về giải quyết vụ án là phù hợp với nhận định nêu trên của Tòa án.

[5] Các đương sự được kháng cáo bản án theo quy định của Điều 273 của Bộ luật Tố tụng Dân sự.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào Điều 28, Điều 35, khoản 1 Điều 39, khoản 4 Điều 147, khoản 2 Điều 227, khoản 1 Điều 228, Điều 266, Điều 271 và Điều 273 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015; Điều 8, Điều 9, Điều 51, Điều 56, Điều 81, Điều 82, Điều 83 và Điều 84 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014; điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên xử: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Nguyễn Thị M.

1. Về quan hệ hôn nhân: Chị Nguyễn Thị M được ly hôn với anh Nguyễn Văn G.

Giấy chứng nhận kết hôn số 31/2016 ngày 10/3/2016 của Ủy ban nhân dân xã Định T, huyện Thoại Sơn, tỉnh An Giang không còn giá trị pháp lý.

2. Về quan hệ con chung: Chị Nguyễn Thị M được tiếp tục nuôi con chung tên Nguyễn Văn Th, sinh ngày 26/11/2012; Sau khi ly hôn người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con chung không ai được quyền ngăn cản. Người không trực tiếp nuôi con chung nếu lạm dụng việc thăm nom để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng con chung thì người trực tiếp nuôi con có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom con của người đó. Vì lợi ích của con, khi cần thiết các đương sự có thể yêu cầu thay đổi người trực tiếp nuôi con chung.

Đối với chị Nguyễn Thị Bé Ng, sinh ngày 01/01/2002 hiện nay đã thành niên, chị Ngọc có quyền lựa chọn cuộc sống riêng của mình nên không đặt ra giải quyết.

3. Về cấp dưỡng nuôi con: Tạm miễn nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con cho anh Nguyễn Văn G do chị Nguyễn Thị M không yêu cầu. Vì lợi ích của con, khi cần thiết các đương sự có thể yêu cầu cấp dưỡng nuôi con chung hoặc thay đổi mức cấp dưỡng nuôi con chung.

4. Về tài sản chung và nợ chung:

- Về tài sản chung: Quá trình giải quyết vụ án chị Nguyễn Thị M trình bày tự thỏa thuận, không yêu cầu nên không đặt ra giải quyết.

- Về nợ chung: Quá trình giải quyết vụ án chị Nguyễn Thị M trình bày không có, không yêu cầu nên không đặt ra giải quyết. Tuy nhiên, sau khi bản án này có hiệu lực pháp luật nếu có nguyên đơn xuất trình chứng cứ chứng minh nợ chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân thì chị Nguyễn Thị M và anh Nguyễn Văn G phải liên đới chịu trách nhiệm với tư cách đồng bị đơn trong vụ án dân sự khác.

5. Về án phí sơ thẩm: Chị Nguyễn Thị M phải chịu 300.000 đồng án phí hôn nhân sơ thẩm, được khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí 300.000 đồng đã nộp theo biên lai thu số 0008723 ngày 23/11/2021 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Thoại Sơn, tỉnh An Giang. Như vậy, chị M đã thực hiện xong nghĩa vụ chịu án phí sơ thẩm. Anh Nguyễn Văn G không phải chịu án phí.

Nguyên đơn, bị đơn vắng mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc ngày niêm yết bản án theo quy định của pháp luật để yêu cầu xét xử Pc thẩm.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6,7,7a, 7b và 9 Luật thi hành án dân sự; Thời hiệu thi hành án dân sự được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

178
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con số 10/2022/HNGĐ-ST

Số hiệu:10/2022/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Thoại Sơn - An Giang
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 18/02/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;