Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con số 09/2022/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH HẢI DƯƠNG

BẢN ÁN 09/2022/HNGĐ-ST NGÀY 17/01/2022 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON

Ngày 17 tháng 01 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Hải Dương xét xử sơ thẩm công khai vụ án hôn nhân gia đình thụ lý số 248/2021/TLST- HNGĐ ngày 04/11/2021 về việc: "Ly hôn, tranh chấp về nuôi con". Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 238/2021/QĐXXST-HNGĐ ngày 15 tháng 12 năm 2021; Quyết định hoãn phiên tòa số 171/2021/QĐST-HNGĐ ngày 31 tháng 12 năm 2021, giữa:

- Nguyên đơn: Anh Nguyễn Văn D, sinh năm 1986.

ĐKHKTT và chỗ ở hiện nay: Xóm B, thôn V, xã C, huyện G, tỉnh Hải Dương.

Vắng mặt và có đơn đề nghị xét xử vắng mặt.

- Bị đơn: Chị Nguyễn Thị T, sinh năm 1994.

Địa chỉ trước khi xuất cảnh: Xóm B, thôn V, xã C, huyện G, tỉnh Hải Dương. Hiện đang cư trú tại: Đài Loan.

Vắng mặt và có quan điểm đề nghị xét xử vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện, bản tự khai và trong quá trình giải quyết vụ án, Nguyên đơn anh Nguyễn Văn D trình bày: Anh và chị Nguyễn Thị T được tự do tìm hiểu, tự nguyện đăng ký kết hôn tại Uỷ ban nhân dân xã C, huyện G, tỉnh Hải Dương vào ngày 06/02/2013. Vợ chồng chung sống hạnh phúc được một thời gian ngắn thì phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân là do vợ chồng bất đồng quan điểm trong cuộc sống, trong làm ăn và trong cách nuôi dậy con cái, vợ chồng không có tiếng nói chung, chị T đi lao động ở nước ngoài nhưng anh, chị không liên lạc với nhau, vợ chồng sống ly thân từ lâu, không ai quan tâm đến ai. Nay, anh D xác định tình cảm vợ chồng không còn, đề nghị Tòa án giải quyết cho anh được ly hôn chị Nguyễn Thị T.

Về con chung: Vợ chồng có hai con chung là Nguyễn Bảo T1, sinh ngày 14/11/2013 và Nguyễn Nhật Hải Đ, sinh ngày 11/10/2017, hiện các con đang ở với anh. Anh đề nghị được nuôi dưỡng con chung là Nguyễn Nhật Hải Đ và giao cho chị T nuôi dưỡng con chung là Nguyễn Bảo T1, không ai phải cấp dưỡng tiền nuôi con chung cho nhau. Trong thời gian chị T không có mặt tại Việt Nam anh là người trực tiếp nuôi dưỡng cả hai con và anh không yêu cầu chị T phải đóng góp tiền nuôi con chung.

Về tài sản, nợ chung: Anh, chị tự thỏa thuận không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Bà Nguyễn Thị H (là mẹ chị T) trình bày: Bà không biết địa chỉ cụ thể của chị T ở nước ngoài nên không cung cấp cho Tòa án được. Tuy nhiên chị T vẫn thỉnh thoảng liên lạc với gia đình qua điện thoại, bà đồng ý nhận các văn bản tố tụng của Tòa án và có trách nhiệm thông báo cho chị T biết. Thông qua gia đình chị T trình bày và xác định tình cảm vợ chồng không còn, vợ chồng không thể đoàn tụ được với nhau, anh D xin ly hôn, chị T nhất trí. Khi ly hôn chị đề nghị được nuôi dưỡng con chung Nguyễn Bảo T1, nhất trí để anh D nuôi dưỡng con Nguyễn Nhật Hải Đ, không ai phải cấp dưỡng tiền nuôi con chung cho nhau. Trong thời gian chị không có mặt tại Việt Nam, chị nhất trí để anh D nuôi cả hai con cho đến khi chị về nước chị sẽ đón cháu Trâm về nuôi dưỡng. Về tài sản chung, anh, chị tự thỏa thuận, không yêu cầu Tòa án giải quyết và chị đề nghị được giải quyết vắng mặt.

Con chung của anh D và chị T là Nguyễn Bảo T1 có nguyện vọng được ở với chị T.

Tòa án xác minh tại chính quyền địa phương nơi anh D, chị T đăng ký kết hôn và sinh sống thể hiện: Sau khi kết hôn được một thời gian thì cả anh D và chị T đều đi xuất khẩu lao động ở nước ngoài. Sau đó, anh D về nước trước còn chị T hiện vẫn ở nước ngoài, vợ chồng mỗi người sống một nơi, tình cảm không có sự chia sẻ, gắn bó. Nay anh D có đơn xin ly hôn, địa phương đề nghị Tòa án giải quyết theo quy định của pháp luật.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Hải Dương phát biểu quan điểm: Thẩm phán, Thư ký, Hội đồng xét xử và nguyên đơn đã thực hiện đúng các quy định của Bộ luật tố tụng dân sự. Về việc giải quyết vụ án: Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng Điều 56; 81; 82, 83 Luật Hôn nhân và gia đình; Điều 147 Bộ luật Tố tụng dân sự; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu án phí, lệ phí Tòa án. Về quan hệ hôn nhân: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện xử cho anh Nguyễn Văn D ly hôn chị Nguyễn Thị T. Về con chung: Giao con chung Nguyễn Nhật Hải Đ cho anh D nuôi dưỡng, giao con chung Nguyễn Bảo T1 cho chị T nuôi dưỡng, không ai phải cấp dưỡng tiền nuôi con chung cho nhau. Tạm giao con chung Nguyễn Bảo T1 cho anh D nuôi dưỡng trong thời gian chị T không có mặt tại Việt Nam; anh D phải chịu 300.000đ án phí ly hôn sơ thẩm.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên toà và xem xét ý kiến của các đương sự, quan điểm của đại diện Viện kiểm sát, Hội đồng xét xử nhận định:

[1]. Về tố tụng: Nguyên đơn anh Nguyễn Văn D sinh sống ở Việt Nam, bị đơn chị Nguyễn Thị T có nơi cư trú cuối cùng trước khi xuất cảnh tại xóm B, thôn V, xã C, huyện G, tỉnh Hải Dương, hiện chị T đang lao động tại Đài Loan. Do vậy, Tòa án nhân dân tỉnh Hải Dương thụ lý, giải quyết là đúng thẩm quyền. Trong quá trình giải quyết vụ án, anh D không cung cấp được địa chỉ cụ thể của chị T ở Đài Loan. Tòa án đã đề nghị gia đình chị T cung cấp địa chỉ nhưng gia đình không cung cấp được. Tòa án cũng tống đạt các văn bản tố tụng cho người thân trong gia đình chị T và gia đình đã thông báo cho chị T biết việc Tòa án đang giải quyết vụ án ly hôn giữa anh D và chị T, đồng thời Tòa án tiến hành niêm yết công khai các văn bản tố tụng theo quy định. Tại phiên tòa lần thứ hai anh D vắng mặt và có đơn đề nghị xét xử vắng mặt, chị T vắng mặt và có quan điểm đề nghị giải quyết vắng mặt. Do vậy, căn cứ điểm b khoản 2 Điều 227, khoản 1 Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt các đương sự theo quy định của pháp luật.

[2]. Về nội dung:

[2.1] Về quan hệ hôn nhân: Anh Nguyễn Văn D và chị Nguyễn Thị T kết hôn trên cơ sở tự nguyện, có đăng ký kết hôn tại Uỷ ban nhân dân xã C, huyện G, tỉnh Hải Dương ngày 06/02/2013 là hôn nhân hợp pháp. Vợ chồng chung sống hạnh phúc được một thời gian ngắn thì phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân là do vợ chồng không có tiếng nói chung, bất đồng quan điểm sống, chị T đi làm ăn nhưng không liên lạc về nhà cho anh. Vợ chồng sống ly thân từ lâu, không ai quan tâm đến ai. Nay anh D xác định tình cảm vợ chồng không còn đề nghị Tòa án giải quyết cho anh được ly hôn chị T, thông qua gia đình chị T xác định tình cảm vợ chồng không còn và nhất trí ly hôn. Hội đồng xét xử xét thấy mâu thuẫn vợ chồng giữa anh D và chị T đã trầm trọng, mục đích hôn nhân không đạt được. Do vậy, cần chấp nhận yêu cầu khởi kiện, xử cho anh D ly hôn chị T là phù hợp với quy định tại Điều 51 và 56 Luật Hôn nhân và gia đình.

[2.2] Về quan hệ con chung: Vợ chồng có hai con chung là Nguyễn Bảo T1, sinh ngày 14/11/2013 và Nguyễn Nhật Hải Đ, sinh ngày 11/10/2017, hiện các con đang ở với anh D, anh D có nguyện vọng được nuôi dưỡng con chung Nguyễn Nhật Hải Đ, để chị T nuôi dưỡng con chung Nguyễn Bảo T1 cho đến khi các con thành niên, không ai phải cấp dưỡng tiền nuôi con chung cho nhau. Hiện tại chị T đang lao động ở Đài Loan, thông qua gia đình chị có nguyện vọng được nuôi dưỡng con chung Nguyễn Bảo T1 cho đến khi thành niên, trong thời gian chị không có mặt tại Việt Nam chị nhất trí để anh D nuôi con thay chị. Con Nguyễn Bảo T1 cũng có nguyện vọng được ở với chị T. Do vậy, Hội đồng xét xử chấp nhận giao con chung Nguyễn Nhật Hải Đ cho anh D chăm sóc, nuôi dưỡng; giao con chung Nguyễn Bảo T1 cho chị T chăm sóc, nuôi dưỡng, không ai phải cấp dưỡng tiền nuôi con chung cho nhau là phù hợp với quy định tại các Điều 81, 82 và 83 Luật Hôn nhân và gia đình. Tạm giao con chung Nguyễn Bảo T1 cho anh Nguyễn Văn D nuôi dưỡng trong thời gian chị T không có mặt tại Việt Nam.

[2.3] Về tài sản chung, nợ chung: Anh D, chị T không yêu cầu nên Hội đồng xét xử không xem xét, giải quyết.

[3]. Về án phí: Anh Nguyễn Văn D phải chịu án phí dân sự sơ thẩm về Hôn nhân gia đình theo quy định tại Điều 147 Bộ luật tố tụng dân sự, điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Vì những lẽ trên:

QUYẾT ĐỊNH

Áp dụng Điều 51; 56; 81; 82, 83 Luật Hôn nhân và gia đình; Điều 147 Bộ luật Tố tụng dân sự; điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của anh Nguyễn Văn D.

1. Về quan hệ hôn nhân: Xử cho anh Nguyễn Văn D ly hôn chị Nguyễn Thị T.

2. Về quan hệ con chung: Xử giao cho anh Nguyễn Văn D nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục con chung là Nguyễn Nhật Hải Đ, sinh ngày 11/10/2017 và giao cho chị Nguyễn Thị T nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục con chung là Nguyễn Bảo T1, sinh ngày 14/11/2013 cho đến khi các con thành niên (đủ 18 tuổi). Anh D, chị T không phải cấp dưỡng tiền nuôi con chung cho nhau. Tạm giao con chung Nguyễn Bảo T1 cho anh D nuôi dưỡng trong thời gian chị T không có mặt tại Việt Nam.

Sau khi ly hôn, người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở.

3. Về tài sản, nợ chung: Không xem xét giải quyết.

4. Về án phí: Anh Nguyễn Văn D phải chịu 300.000đ (ba trăm nghìn đồng) án phí dân sự sơ thẩm về Hôn nhân gia đình và được đối trừ số tiền tạm ứng án phí 300.000đ (ba trăm nghìn đồng) đã nộp, theo biên lai thu số AA/2020/0004579 ngày 04 tháng 11 năm 2021 của Cục thi hành án dân sự tỉnh Hải Dương.

5. Về quyền kháng cáo: Anh Nguyễn Văn D được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.

Chị Nguyễn Thị T được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 30 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

185
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con số 09/2022/HNGĐ-ST

Số hiệu:09/2022/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Hải Dương
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 17/01/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;